Cách mạng công nghiệp 4.0 - Thời cơ và thách thức đối với Việt Nam

Ngày đăng: 22/09/2017 - 15:09

Tóm tắt: Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) là một thành quả, xu thế phát triển mới của nhân loại trong thập niên thứ hai của thế kỷ XXI. Hiểu một cách đơn giản, nếu như cuộc cách mạng công nghiệp lần đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất, cuộc cách mạng lần thứ hai ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt, cuộc cách mạng lần thứ ba sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất, thì cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật và sinh học.

Từ khóa: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ cao, công nghệ thông tin

1. Bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Xét về mặt nguồn gốc, cuộc cách mạng này xuất phát từ khái niệm “industrie 4.0” trong một báo cáo của Chính phủ CHLB Đức năm 2013 về phát triển kinh tế. Ông Klaus Schwab, người sáng lập và là Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế thế giới, đã phân tích bản chất của Cách mạng công nghiệp 4.0 so với các cuộc cách mạnh công nghiệp trước đó: “Cuộc Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng lần thứ hai diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng lần thứ ba sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Đến bây giờ, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần thứ ba, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật và sinh học”. Theo ông, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ diễn ra trên ba lĩnh vực chính gồm: kỹ thuật số, vật lý và công nghệ sinh học.

cach mang cn1892017

Cụ thể, những yếu tố cốt lõi của kỹ thuật số trong Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ là: trí tuệ nhân tạo (AI - Artificial Inteligence), Internet kết nối vạn vật (Internet of Things - IoT), máy tính lượng tử (Quantum Computers), công nghệ điện toán đám mây (Cloud Computing), dữ liệu lớn (Big Data), dữ liệu nhanh (Fast Data)… Chúng đã và đang làm không gian mạng thay đổi sâu sắc cả về chất và lượng, tiến hóa thành một hình thái mới được gọi là “không gian mạng phức hợp”. Không gian này được dự báo sẽ mang lại những lợi ích chưa từng có cho xã hội loài người.

Trên lĩnh vực vật lý với robot thế hệ mới, trình độ tự động hóa cao đang tạo nên cuộc cách mạng làm thay đổi phương thức sản xuất trong nhiều công đoạn của quá trình sản xuất mới, thay thế sức lao động của con người bằng máy móc hiện đại, đồng thời với sự ra đời, phát triển mạnh mẽ của công nghệ trí tuệ nhân tạo, máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới và nhất là công nghệ nano.

Trên lĩnh vực công nghệ sinh học, Cách mạng công nghiệp 4.0 tập trung nghiên cứu để tạo ra những bước nhảy vọt trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản, y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu mới.

Khác với các cuộc cách mạng công nghiệp trước, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 mang tính đột phá cao. Theo Klaus Schwab, tốc độ đột phá của Cách mạng công nghiệp 4.0 là “không có tiền lệ trong lịch sử”, đang tiến triển theo một hàm số mũ chứ không phải là tốc độ tuyến tính trong toán học. Cách mạng công nghiệp 4.0 có xu hướng phát triển dựa trên nền tảng tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa - vật lý - sinh học với sự đột phá của internet vạn vật và trí tuệ nhân tạo, đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất của thế giới, nền văn minh của nhân loại trong thế kỷ XXI.

Đặc điểm cơ bản của nó là tận dụng một cách triệt để sức mạnh lan tỏa của số hóa và công nghệ thông tin. Làn sóng công nghệ mới này đang diễn ra với tốc độ khác nhau tại các quốc gia trên thế giới, tác động mạnh mẽ và ngày một gia tăng tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, dẫn đến việc thay đổi phương thức và lực lượng sản xuất của xã hội. Internet, điện thoại thông minh và hàng loạt các ứng dụng công nghệ khác đang làm cho cuộc sống của con người trở nên dễ dàng hơn và năng suất lao động cao hơn. Nhìn chung, tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra với tốc độ nhanh, phạm vi bao phủ rộng, từ các lĩnh vực sản xuất đến đời sống, từ hoạt động của mỗi cá nhân đến tổ chức, doanh nghiệp và của cả chính phủ, các bộ, ngành. Các phát minh như xe không người lái, nhà máy thông minh, thành phố thông minh, chính phủ điện tử… là những ví dụ về tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 đến đời sống xã hội.

Cách mạng công nghiệp 4.0 là bước phát triển tiếp theo của các cuộc cách mạng công nghiệp trước đó, bởi:

- Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra vào nửa cuối thế kỷ XVIII, bắt đầu ở nước Anh với sự chuyển đổi từ sản xuất thủ công, lao động cơ bắp sang sản xuất cơ khí máy móc nhờ phát minh ra động cơ hơi nước.

- Cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra từ nửa cuối thế kỷ XIX cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra năm 1914, với đặc trưng là thay đổi từ sản xuất đơn lẻ sang sản xuất hàng loạt bằng máy móc chạy bằng năng lượng điện.

- Cách mạng công nghiệp lần thứ ba diễn ra từ những năm 70 của thế kỷ XX với sự ra đời của sản xuất tự động dựa vào máy tính, thiết bị điện tử và internet.

- Cách mạng công nghiệp 4.0 lần này được xác định bắt đầu từ vài năm gần đây, bản chất là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh dựa trên thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nano vật liệu mới… với nền tảng là các đột phá của công nghệ số. Như đã nói ở trên, khái niệm “công nghiệp 4.0” được đưa ra lần đầu tiên vào năm 2013 tại Hội chợ Hannover giới thiệu mô hình dự kiến của các công trình công nghiệp 4.0 của nước Đức, nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền công nghiệp, kinh tế nước này.

Thời điểm đó, không chỉ Đức mà nhiều nước phát triển khác cũng có chương trình chiến lược về sản xuất ứng dụng các thành tựu tiến bộ, tiên tiến của khoa học - công nghệ. Nước Mỹ có “Chiến lược quốc gia về sản xuất tiên tiến” cho ba thập kỷ tới; nước Pháp có “Bộ mặt mới của công nghiệp nước Pháp”; Hàn Quốc có “Chương trình tăng trưởng của Hàn Quốc trong tương lai”; Trung Quốc có chương trình “Sản xuất tại Trung Quốc năm 2025”; Nhật Bản có kế hoạch xây dựng “Xã hội thông minh 5.0”,...

Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra tại các nước phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản và các nước Đông Á như Trung Quốc, Hàn Quốc… Các quốc gia khác cũng tham gia ở nhiều mức độ khác nhau và chịu sự tác động của cuộc cách mạng này. Theo dự báo, cuộc cách mạng này là một thay đổi lớn mang tính đột phá về quy mô với phạm vi tác động lớn hơn nhiều so với cuộc cách mạng trước và sẽ tác động tới toàn xã hội, từ tất cả các ngành nghề, lĩnh vực của đời sống xã hội cho tới hệ thống các doanh nghiệp và từng cá nhân. Cuộc cách mạng này đã, đang và sẽ tạo ra nhiều cơ hội và cả những thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội toàn cầu cũng như đối với từng quốc gia.

2. Thời cơ và thách thức đối với Việt Nam

Không nằm ngoài quỹ đạo chung của thế giới, hiện nay Việt Nam đã và đang tham gia, chịu tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0, điều này tạo ra nhiều cơ hội và cả những khó khăn, thách thức cho chúng ta trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Về mặt thuận lợi, có thể nói những thành tựu về kinh tế - xã hội cũng như sự tích cực chủ động hội nhập quốc tế qua hơn 30 năm đổi mới của đất nước ta đã tạo ra những tiền đề quan trọng để Việt Nam tiếp cận, triển khai cuộc cách mạng công nghiệp này.

Hơn nữa, do đặc điểm của Cách mạng công nghiệp 4.0 là không phụ thuộc chủ yếu vào máy móc, thiết bị mà tùy thuộc nhiều vào khả năng và trí tuệ của con người, năng lực sáng tạo nên Việt Nam có thể tận dụng ưu thế của nước đi sau, cùng với đó là những thuận lợi khác như chúng ta đang ở giai đoạn cơ cấu dân số vàng; số người sử dụng điện thoại thông minh, internet chiếm tỷ lệ cao trong khu vực; mặt khác, Nhà nước, Chính phủ luôn quan tâm, triển khai các nội dung để nắm bắt và ứng dụng các thành tựu, đồng thời hạn chế những thách thức, khó khăn của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam trong việc phát triển kinh tế - xã hội.

Bên cạnh những thuận lợi như trên, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức lớn như:

- Về năng lực, chất lượng của các doanh nghiệp: Trong khi thế giới đang tiến vào cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 thì Việt Nam vẫn chủ yếu ở giai đoạn 2 (tức thực hiện dây chuyền gia công, lắp ráp). Theo thống kê, 97% doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa, năng lực cạnh tranh, trình độ khoa học - công nghệ, nhất là chất lượng nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Đa số doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam hiện nay đang sử dụng công nghệ của những năm 1980, trong đó có 52% sử dụng thiết bị lạc hậu, 38% sử dụng thiết bị trung bình, chỉ có 10% là sử dụng thiết bị tương đối hiện đại. Chi phí đầu tư cho đổi mới khoa học - công nghệ của doanh nghiệp bình quân còn quá thấp, chỉ chiếm 0,3% tổng doanh thu1.

Khi ứng dụng công nghệ số, thực hiện cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ dẫn đến những thay đổi về mô hình sản xuất, văn hóa kinh doanh, mô hình tổ chức… Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải xử lý, thích ứng với sự thay đổi này. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm thay đổi cơ cấu lao động, làm cho sự chuyển dịch lao động diễn ra nhanh hơn và trên quy mô lớn hơn. Theo nghiên cứu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), dệt may và điện tử, điện máy là hai ngành mà Việt Nam sẽ chịu tác động mạnh nhất, bởi lẽ những ngành này chịu tác động của quá trình tự động hóa rất lớn. Dự báo sẽ có khoảng 86% lao động ngành dệt may và 75% lao động ngành điện tử sẽ chịu sự tác động từ Cách mạng công nghiệp 4.0. Một số ngành khác cũng sẽ chịu ảnh hưởng là chăm sóc sức khỏe, y tế, giáo dục, bán lẻ, giao thông vận tải2.

Theo dự báo, những rủi ro về công nghệ sẽ ra tăng với những vấn đề về an ninh mạng, thanh toán dữ liệu…, mức độ cạnh tranh sẽ tinh vi và khốc liệt hơn trước rất nhiều, trong đó các công ty công nghệ tài chính Fintech sẽ cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng thương mại.

- Về chất lượng nguồn nhân lực: Yêu cầu giải quyết vấn đề nguồn nhân lực, đào tạo được đội ngũ nhân lực có chất lượng cao, thích ứng được với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang là vấn đề trung tâm, thách thức lớn đối với Việt Nam hiện nay. Theo dự báo, trong những năm tới, Việt Nam sẽ thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghệ thông tin nói chung và công nghệ cao nói riêng, cụ thể là sẽ thiếu hụt khoảng 78 nghìn nhân lực mỗi năm và đến năm 2020 sẽ thiếu hơn 500 nghìn nhân lực, chiếm 78% tổng nhu cầu nhân lực công nghệ thông tin3. Hơn nữa, phần lớn lao động Việt Nam chưa được đào tạo bài bản, năng lực lý thuyết và tay nghề còn hạn chế, nhất là kiến thức chuyên môn, ngoại ngữ để giao tiếp, làm việc. Theo đánh giá của các chuyên gia tay nghề, thể lực lao động của người Việt Nam còn nhiều hạn chế trong khi tác phong kỷ luật công nghiệp chưa cao, đồng thời năng suất của lao động Việt Nam hiện đang thua xa các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia… Do vậy, sắp tới, trong điều kiện tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0, lợi thế cạnh tranh về lao động giá rẻ của nước ta sẽ bị giảm sút, nhất là trong ngành dệt may, da giày, những ngành lao động mang tính gia công làm thuê. Thực tế đó đòi hỏi lao động Việt Nam phải được đào tạo để có trình độ chuyên môn cao hơn, phải làm chủ được người máy, công nghệ thông tin, có trình độ tiếng Anh tốt. Công nghệ thông tin và tiếng Anh chính là hai yếu tố nền tảng giúp thế hệ trẻ chủ động tiếp cận với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 nói chung và cách mạng số nói riêng.

3. Kiến nghị, giải pháp

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được phát triển trên nền tảng khoa học - công nghệ, do đó, để có thể tiếp cận xu thế của cuộc cách mạng này, một trong những yêu cầu quan trọng là áp dụng khoa học công nghệ, nhất là số hóa công nghệ thông tin vào hoạt động hành chính, dịch vụ công của các cơ quan nhà nước, với mục tiêu xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo, phát triển và hành động vì doanh nghiệp và người dân. Điều này đòi hỏi phải có sự thống nhất về nhận thức và vào cuộc đồng bộ của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp cũng như mỗi cán bộ, công chức và người dân. Chuyển đổi tư duy nhận thức từ cơ chế nền hành chính “mệnh lệnh”, “xin - cho” sang nền hành chính phục vụ, coi người dân và doanh nghiệp thực sự là “đối tác, khách hàng” trong cung cấp dịch vụ công. Muốn vậy, cần nhanh chóng xây dựng Luật hành chính công mới, tạo hành lang pháp lý, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng Chính phủ điện tử, đồng thời nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức và nhân dân.

Nhận thức được xu thế phát triển của thời đại, nhất là vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ, Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua luôn quan tâm đến sự phát triển của khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, coi đó là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chủ trương tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ quốc gia, xây dựng hệ thống đổi mới, phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Khuyến khích và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nghiên cứu phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ mới, tiên tiến vào quá trình sản xuất.

Tuy nhiên, Đảng ta cũng đã chỉ rõ những hạn chế, yếu kém như: “Khoa học, công nghệ chưa thực sự gắn kết và trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội cho khoa học, công nghệ chưa được chú trọng. Không hoàn thành mục tiêu xây dựng các trung tâm khoa học lớn đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao. Cơ chế quản lý khoa học, công nghệ chậm đổi mới. Thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm”. Đồng thời xác định rõ mục tiêu phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, phấn đấu đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới. Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp4.

Cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, ngày 4-5-2017, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhằm chủ động nắm bắt cơ hội, đưa ra các giải pháp thiết thực, tận dụng tối đa các lợi thế, đồng thời giảm thiểu những tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với Việt Nam. Chỉ thị cũng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương cần tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp, nhiệm vụ thúc đẩy phát triển, tạo sự bứt phá thực sự về hạ tầng và nguồn nhân lực công nghệ thông tin - truyền thông. Phát triển hạ tầng kết nối số và bảo đảm an toàn an ninh mạng, tạo điều kiện cho người dân vào doanh nghiệp dễ dàng, bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội phát triển dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

Theo hướng này, trong thời gian tới, cần tập trung vào một số giải pháp trọng yếu sau:

- Vì cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra với tốc độ nhanh hơn rất nhiều so với các cuộc cách mạng trước đây nên việc đổi mới giáo dục, đổi mới đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không chỉ là yêu cầu quan trọng mà còn rất cấp bách hiện nay, trong đó chú trọng nâng cao trình độ công nghệ thông tin và ngoại ngữ ở các bậc học theo hướng hội nhập quốc tế.

- Tiếp tục đẩy mạnh việc hoàn thiện môi trường kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp, đưa Việt Nam trở thành quốc gia khởi nghiệp là con đường nhanh nhất để phát triển lực lượng doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp công nghệ cao, tạo những nhân tố phát triển đột phá trong nền kinh tế số, tập trung xây dựng, thúc đẩy các hoạt động ứng dụng nghiên cứu phát triển, chuyển giao công nghệ chủ chốt của cuộc cách mạng 4.0. Trước hết, cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận và ứng dụng được các công nghệ sản xuất mới.

- Các bộ, ngành khẩn trương triển khai xây dựng Chính phủ điện tử, xây dựng nhà máy, thành phố thông minh. Tập trung xây dựng chiến lược chuyển đổi và phát triển nền quản trị hành chính và doanh nghiệp thông minh, các ngành như nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh… Theo hướng này, cần tiếp tục rà soát lựa chọn phát triển các sản phẩm chủ lực, mang tính cạnh tranh chiến lược của quốc gia trên cơ sở ứng dụng các công nghệ sản xuất mới, để tập trung đầu tư phát triển.

- Về lâu dài, cần có kế hoạch tập trung đầu tư cho các ngành mũi nhọn trọng điểm của quốc gia như công nghệ thông tin, nhất là công nghệ phần mềm, thông tin vệ tinh, số hóa, năng lượng mới, vật liệu mới nano, công nghệ sinh học và sự tích hợp giữa chúng.

- Đổi mới cơ chế và chính sách để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của doanh nghiệp, chú trọng cơ chế về tài chính, thuế nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho lĩnh vực đổi mới công nghệ, nhất là đối với công nghệ thông tin và công nghệ tiên tiến khác. Tận dụng tiềm năng tri thức, kinh nghiệm chuyển giao công nghệ mới của lực lượng kiều bào ta ở nước ngoài.

- Để tận dụng cơ hội và khắc phục những thách thức, khó khăn dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, cần tăng cường công tác tư tưởng, tuyên truyền thông tin về bản chất, xu hướng phát triển và tác động của cuộc cách mạng này cùng những thời cơ, thách thức đặt ra để định hướng dư luận, nâng cao nhận thức của các tổ chức, doanh nghiệp và người dân về cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

- Trong Chương trình hành động của Chính phủ, ngoài quyết tâm chính trị, nắm bắt thời cơ, cần chú trọng các yếu tố về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, cần đầu tư đồng bộ, tập trung phát triển hạ tầng công nghệ thông tin là yêu cầu mang tính nền tảng. Bên cạnh đó, thực hiện đổi mới giáo dục, đào tạo trong hệ thống các trường dạy nghề theo hướng phát triển nguồn nhân lực, chuyển đổi nghề nghiệp có kỹ năng phù hợp, có thể tiếp thu, làm chủ và khai thác, vận hành hiệu quả những tiến bộ công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Ngoài ra, cần xây dựng phương án, đề xuất các chính sách mới phù hợp với việc thay đổi trong cơ cấu lao động nhằm giảm thiểu tác động, ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với cơ cấu thị trường lao động, bảo đảm thực hiện an sinh xã hội.

PGS. TSKH. Trần Nguyễn Tuyên

Hội đồng Lý luận Trung ương

1. “Công nghiệp Việt Nam thiếu “anh cả””, Báo Tuổi trẻ Online, ngày 28-11-2016.

2. “Doanh nghiệp trước Cách mạng công nghiệp 4.0”, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 122, ngày 23-5-2017.

3.  “Chuẩn bị nhân lực cho Cách mạng công nghiệp 4.0”, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 125+126, ngày 26, 27-5-2017.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.119-120.

Bình luận