Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới

Ngày đăng: 29/09/2017 - 10:09

Giai cấp công nhân hình thành, phát triển gắn liền với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhưng khác với tất cả các giai cấp khác, giai cấp công nhân không chỉ là một giai cấp những người lao động nghèo khổ, mà còn là một giai cấp cách mạng có sứ mệnh lịch sử vẻ vang - thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở mỗi quốc gia dân tộc và trên toàn thế giới. Trải qua thời gian tình hình thế giới dẫu có nhiều đổi thay nhưng sứ mệnh vẻ vang của giai cấp công nhân vẫn không hề thay đổi.

Từ những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ XiX, vượt lên trên những tư tưởng nhân văn trừu tượng đương thời, trước khi gặp C.Mác, Ph.ăngghen đã có nhiều công trình nghiên cứu độc lập phản ánh sâu sắc đời sống của những người lao động công nghiệp. Ông là người đi tiên phong trong phê phán trật tự của nước anh tư bản chủ nghĩa theo khuynh hướng chủ nghĩa xã hội khoa học khi chỉ rõ nguyên nhân của sự bần cùng hóa người lao động và tìm ra con đường đúng đắn để khắc phục tình trạng đó. Ph.ăngghen nhận thấy chính sự đối kháng về lợi ích kinh tế là nguồn gốc sâu xa của những mâu thuẫn, bất bình đẳng xã hội, chia rẽ sâu sắc con người. Khi đánh giá vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản và sự phát triển lực lượng sản xuất của thời đại tư sản, Ph.ăngghen là người đầu tiên đã nói rằng, giai cấp vô sản không phải chỉ là giai cấp đau khổ, rằng địa vị kinh tế nhục nhã của giai cấp vô sản thúc đẩy, một cách không gì ngăn nổi nó tiến lên. Và buộc nó phải đấu tranh cho sự giải phóng cuối cùng của nó. Ph.ăngghen đã sớm có kết luận rằng, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân; cần xác lập mối quan hệ chặt chẽ giữa khoa học, triết học với đời sống xã hội đương thời.

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời (năm 1848) chỉ rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. C.Mác và Ph.ăngghen xuất phát từ những phân tích sâu sắc về chủ nghĩa tư bản để đi đến kết luận: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”1. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển càng hiện đại thì càng làm cho giai cấp công nhân tăng lên về số lượng, có chất lượng ngày càng cao với những phẩm chất ưu việt, như tiên tiến nhất, ý thức tổ chức, kỷ luật cao nhất, luôn có tinh thần đoàn kết, thống nhất và cách mạng triệt để nhất. Do có đầy đủ những phẩm chất ưu việt đó, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp duy nhất trong xã hội tư bản có đủ khả năng đảm đương vai trò sứ mệnh lịch sử vẻ vang là tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. C.Mác và Ph.ăngghen đã nhấn mạnh rằng, cùng với sự lớn mạnh của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, “giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản”2.

Nhận thức sâu sắc vai trò của lý luận cách mạng đối với phong trào cách mạng, C.Mác và Ph.ăngghen đã hướng trọng tâm hoạt động của mình vào nghiên cứu khoa học, kịp thời giải đáp những câu hỏi lớn mà thời đại đặt ra nhưng chưa có lời giải. C.Mác đã cống hiến cho nhân loại hai phát kiến khoa học vĩ đại là Chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. Từ đây học thuyết Mác đã được chứng minh về mặt khoa học, trở thành hệ thống lý luận khoa học sâu sắc, toàn diện, cân đối gồm ba bộ phận: Triết học mácxít; Kinh tế học chính trị mácxít và Chủ nghĩa cộng sản khoa học. Chủ nghĩa Mác cách mạng và khoa học nhanh chóng được truyền bá rộng khắp châu Âu và trên toàn thế giới trở thành nền tảng tư tưởng của các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, vũ khí tinh thần sắc bén, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng vô sản thế giới.

Cả về lý luận và thực tiễn đã cho thấy, một giai cấp cách mạng muốn thực hiện được vai trò lãnh đạo đối với toàn xã hội phải thông qua bộ phận “hạt nhân” lãnh đạo, “lãnh tụ” chính trị của mình. Do vậy, giai cấp công nhân muốn thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình, nhất thiết phải tổ chức ra được chính đảng cộng sản thực sự là bộ phận tiên tiến, giác ngộ nhất, trung thành và đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào đấu tranh của giai cấp, của dân tộc, có lý luận khoa học dẫn đường. C.Mác và Ph.ăngghen đã chỉ rõ: “Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”1. Đảng Cộng sản là hạt nhân lãnh đạo chuyển cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân từ tự phát lên tự giác, thực hiện thắng lợi sứ mệnh vẻ vang của mình.

Có lý luận tiền phong hướng dẫn, giai cấp công nhân ở mỗi nước và trên thế giới đã từng bước đoàn kết lại, đấu tranh đòi quyền lợi cho mình và cho quần chúng cần lao. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là có tính chất quốc tế, nhưng giai cấp công nhân mỗi nước, trước hết phải hoàn thành sự nghiệp cách mạng ở dân tộc mình, “phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”3. Đó là các nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang mà giai cấp công nhân và lao động mỗi nước phải thực hiện sau khi đã giành được chính quyền, từng bước xây dựng chế độ xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời, giai cấp công nhân có cương lĩnh cách mạng đúng đắn, tập hợp lực lượng cách mạng đấu tranh với giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Các tổ chức lãnh đạo của giai cấp công nhân thế giới lần lượt ra đời: “hội liên hiệp lao động quốc tế” - Quốc tế i (1861-1872); “hội Quốc tế xã hội chủ nghĩa” - Quốc tế ii với sự ra đời của các đảng dân chủ - xã hội ở các nước tư bản từ sau những năm 1889 đã đưa phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển ngày càng tự giác, gắn đấu tranh chính trị với đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, lý luận phát triển ngày càng sâu rộng. Chủ nghĩa cộng sản từ chỗ bị coi là “bóng ma” ám ảnh châu Âu đã trở thành hiện thực sinh động. Công xã Pari là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên, nổ ra ở Thủ đô nước Pháp (18-3-1871), mặc dù chỉ tồn tại 72 ngày nhưng đã làm rung chuyển thành trì chủ nghĩa tư bản, góp phần làm sâu sắc lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại.

Đại hội Quốc tế i họp ở Luân Đôn (4-1864), thông qua dự án đấu tranh ngày làm 8 giờ của C.Mác và hướng dẫn phong trào đấu tranh rộng khắp của công nhân các nước anh, Mỹ. Năm 1868, chính quyền Mỹ buộc phải thông qua đạo luật ngày làm việc 8 giờ trong các cơ quan xí nghiệp thuộc chính phủ, nhưng các xí nghiệp tư bản vẫn làm 11-12 giờ mỗi ngày. Tháng 1-1884, tại thành phố công nghiệp lớn Chicago (Mỹ), Đại hội Liên đoàn Lao động Mỹ thông qua nghị quyết: từ ngày 1-5-1886, ngày lao động của tất cả công nhân sẽ là 8 giờ, hàng năm chọn ngày ấy để làm hợp đồng mới giữa chủ và thợ. Đúng ngày 1-5-1886 khắp nơi trên nước Mỹ, công nhân đều mang biểu ngữ: “Từ nay trở đi không người thợ nào làm việc quá 8 giờ 1 ngày”; Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi và 8 giờ học tập. 5.000 cuộc bãi công của công nhân với khoảng 340.000 người tham gia khắp nước Mỹ... Từ đó, ngày 1-5 hằng năm đã trở thành ngày hội đấu tranh của công nhân và lao động trên toàn thế giới..

Là người kế tục xuất sắc những tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác về vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, V.i.Lênin và Đảng Bônsêvích Nga đã lãnh đạo giai cấp công nhân, nông dân, trí thức và binh lính Nga, tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Mười (1917) thắng lợi, hiện thực hóa lý tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác, mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản; đưa nhân loại bước vào kỷ nguyên tự giải phóng, giành lại những giá trị chân chính của con người. Sự ra đời và không ngừng lớn mạnh của chủ nghĩa xã hội hiện thực và cao trào cách mạng ở thế kỷ XX đã chứng minh cho học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đúng đắn.

Vào đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, do tận dụng được thành tựu mới nhất của cách mạng khoa học - công nghệ ứng dụng vào phát triển sản xuất, chủ nghĩa tư bản có bước phát triển mới nhưng không vì thế có thể làm thay đổi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại. Trong khi đó, chủ nghĩa xã hội hiện thực lại chậm đổi mới, tích tụ khuyết tật, sai lầm đã dần lâm vào khủng hoảng toàn diện, kéo theo sự thoái trào của phong trào cách mạng thế giới. Lợi dụng những biến đổi phức tạp ấy, các học giả tư sản cùng nhiều phần tử cơ hội, xét lại khác đã ra sức tuyên truyền xuyên tạc bức tranh thế giới, rằng giai cấp công nhân hiện đại trong kinh tế tri thức không còn vai trò sứ mệnh lịch sử nữa. họ cố tình xuyên tạc rằng, ở thời đại văn minh tin học, thuyết giá trị lao động đã bị thuyết giá trị tri thức thay thế; lý luận giá trị thặng dư đã bị thay thế bởi lý luận coi lợi nhuận là thù lao cho việc tổ chức quản lý sản xuất; sự can thiệp của nhà nước đã triệt để loại bỏ được tình trạng sản xuất vô chính phủ và khủng hoảng kinh tế; sự hình thành, phát triển giai cấp trung lưu mới sẽ xóa bỏ được sự đối lập giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản...

Nhưng sự thực không phải như vậy. Vai trò của khoa học - kỹ thuật ngày càng được nâng cao trong sản xuất không những không hề phủ nhận thuyết giá trị lao động của C.Mác mà trái lại, nó chỉ chứng minh rõ hơn tính đúng đắn của thuyết đó. Bởi vì, bản thân nghiên cứu khoa học là một loại lao động đặc biệt, lao động trí óc, sáng tạo giá trị lao động khoa học mới. Các thiết bị kỹ thuật dù là tiên tiến nhất cũng không tạo ra giá trị, mà chỉ là sự dịch chuyển giá trị. Thuyết giá trị lao động bao gồm cả sự sáng tạo giá trị của lao động trí óc là đúng đắn. Giá trị thặng dư vẫn tồn tại trong xã hội tư bản hiện đại. Không có bộ phận này thì không có lợi nhuận. Như vậy, chỉ có lao động làm thuê (cả lao động trí óc, khoa học) mới tạo ra được giá trị thặng dư, chứ không phải là bản thân khoa học - kỹ thuật và các thiết bị tiên tiến, sẽ góp phần sáng tạo ra những giá trị cốt lõi đó như các nhà lý luận tư sản nói.

Để duy trì sự tồn tại trong cuộc đối đầu với hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, các nước tư bản phát triển có những điều chỉnh tích cực cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Về lực lượng sản xuất, các nước tư bản phát triển triệt để tận dụng những thành tựu mới nhất của cách mạng khoa học và công nghệ để mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng suất lao động, đưa sản xuất phát triển vào chiều sâu, tính chất chuyên môn hóa ngày càng cao. Kinh tế tri thức ra đời với sự tăng lên rất nhanh của cải vật chất, đã đáp ứng nhu cầu xã hội ngày càng đa dạng. Theo đó, đời sống của người công nhân với tư cách là lực lượng sản xuất chủ yếu cũng được quan tâm, nâng cao, phúc lợi xã hội được tăng cường. Về quan hệ sản xuất, vẫn bảo tồn chế độ sở hữu tư nhân tư bản về nguyên tắc, còn trong hình thức tổ chức đã có những bước điều chỉnh mở rộng các hình thức sở hữu tư bản như mở rộng chế độ cổ phần, bán cổ phiếu có giá trị nhỏ cho người lao động. hiện tượng này đã được các nhà lý luận tư sản tô vẽ là “chủ nghĩa tư bản nhân dân, nhân đạo”, người công nhân có cổ phần trở thành hữu sản. Trên thực tế, mặc dù đời sống công nhân các nước phát triển, có thể ít nhiều được cải thiện nhưng địa vị kinh tế của họ vẫn không vì thế mà thay đổi; quyền chi phối xí nghiệp vẫn do các chủ tư bản chiếm đa số cổ phần điều hành và bản chất bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản vẫn không hề thay đổi.

Đặc biệt, với toàn cầu hóa hiện nay, triệt để tận dụng lợi thế cạnh tranh, sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản lại trở nên thậm tệ đối với các nước chậm phát triển, đang phát triển. Những biến đổi nhanh chóng đó là nguồn gốc sâu xa làm nảy sinh và duy trì mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản hiện đại - mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chẳng những không mất đi mà càng gay gắt hơn. Biểu hiện của mâu thuẫn ấy về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa lao động và bóc lột, vô sản và tư sản không hề mất đi, mà vẫn tồn tại và mở rộng phạm vi ra toàn cầu. Nhất là khi khoảng cách chênh lệch mức sống giữa người giàu và người nghèo ở các nước tư bản phát triển ngày càng tăng, hố sâu ngăn cách giữa các nước giàu và các nước nghèo ngày càng lớn, nhiều nước nghèo không có khả năng thanh toán các khoản nợ nước ngoài. hơn một tỷ người trên thế giới hiện nay, đang phải sống dưới mức nghèo khổ. Thiếu nước sạch, điều kiện y tế, bệnh dịch, cùng nhiều tệ nạn xã hội khác như bạo lực, ma túy, mại dâm... ngày càng gia tăng.

Đó là những “vết loét” không thể tự khắc phục được của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Bản chất bóc lột giá trị thặng dư của người lao động làm thuê trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa không hề thay đổi, mà chỉ ngày càng tinh vi, khắc nghiệt hơn. Do vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản hiện nay cũng tất yếu như lúc nó mới ra đời để chống lại “sự bóc lột công nhiên, vô sỉ, trực tiếp, tàn nhẫn” của giai cấp tư sản và chỉ kết thúc khi phương thức sản xuất mới cộng sản chủ nghĩa được xác lập triệt để.

Trải qua thời gian, hoàn cảnh, điều kiện lịch sử xã hội đã có nhiều thay đổi, một số luận điểm cụ thể mà C.Mác, Ph.ăngghen và V.i.Lênin đề cập, đến nay có thể không còn phù hợp, cần thay đổi hoặc bổ sung mới. Điều này cần thực hiện tốt chỉ dẫn của V.i.Lênin: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”4. Một trong những nhiệm vụ cấp bách đó, cần làm tốt công tác xây dựng Đảng, phải tổ chức một chính đảng của giai cấp công nhân tập trung và độc lập, vũ trang bằng lý luận cách mạng, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho Đảng trở thành một chính Đảng trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu cao để hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của giai cấp.

Nhìn lại chặng đường 85 năm, kể từ ngày Đảng ta ra đời, giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng lớn mạnh, trưởng thành. Nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân đã chứng tỏ là lực lượng sản xuất cơ bản, nắm giữ những lĩnh vực then chốt và các phương tiện hiện đại của nền sản xuất, là lực lượng đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế. hiện nay, cả nước có khoảng 10 triệu công nhân, tạo ra 60% tổng sản phẩm xã hội, hơn 70% ngân sách cả nước. Giai cấp công nhân là đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn, là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thời kỳ mới, giai cấp công nhân nước ta là lực lượng nòng cốt trong khối liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng kiên trì sự nghiệp đổi mới, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng hồ Chí Minh và lý tưởng cộng sản của giai cấp công nhân vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã khẳng định niềm tin vững chắc vào tính tất yếu thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản: “Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”5.

Cần tập trung xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng lớn mạnh, ngang tầm nhiệm vụ cách mạng để làm tròn sứ mệnh vẻ vang của mình trong thời kỳ mới. Muốn thực hiện thành công giải pháp mang tầm chiến lược đó phải luôn: kết hợp chặt chẽ với quá trình phát triển kinh tế - xã hội; xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; phát huy vai trò Công đoàn là tổ chức trực tiếp vừa đại diện, vừa bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động; bảo đảm hài hòa các lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động và toàn xã hội. Đồng thời, phải đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân; bồi dưỡng đội ngũ công nhân trẻ có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, bước đầu hình thành đội ngũ công nhân trí thức ngang tầm khu vực và quốc tế, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng, giàu lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đoàn kết và hợp tác quốc tế, trở thành lực lượng nòng cốt của giai cấp công nhân cả nước. Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã và đang vươn lên làm tròn sứ mệnh vẻ vang trong thời kỳ mới, góp phần xứng đáng vào sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân quốc tế.

Đại tá, PGS. TS. Phạm Văn Nhuận*

Bài viết trích trong cuốn Bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản

* Nguyên Trưởng ban Nghiên cứu, Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự - Bộ Quốc phòng

1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 614 - 615.

2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 605.

3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 623 - 624.

4. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 232.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 69.

Bình luận