Kinh tế tư nhân - Những vấn đề đặt ra và định hướng phát triển

Ngày đăng: 03/11/2017 - 09:11

Tóm tắt: Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã ban hành Nghị quyết “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, nhằm thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân và toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, kinh tế tư nhân đã bộc lộ không ít hạn chế. Bài viết xuất phát từ góc độ lý luận và thực tiễn để làm rõ quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân, đánh giá khách quan thực trạng, nhất là những vấn đề đang đặt ra đối với kinh tế tư nhân hiện nay, trên cơ sở đó, xác định những định hướng và giải pháp khả thi để phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian tới.

Từ khóa: Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, kinh tế tư nhân

Tại Diễn đàn Kinh tế tư nhân lần thứ hai tổ chức ­tại Hà Nội ngày 31-7-2017, để triển khai Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3-6-2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh: kinh tế tư nhân sẽ là đầu kéo quan trọng để phát triển đất nước, khẳng định Chính phủ sẽ tạo mọi điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển, hướng tới mục tiêu đóng góp 60% GDP trong giai đoạn tới. Mặc dù có bước phát triển quan trọng trong thời gian qua, chiếm tỷ trọng 39-40% GDP hiện nay, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế... tuy nhiên về tổng thể, kinh tế tư nhân còn nhiều hạn chế, chưa phát triển lớn mạnh, đang gặp rất nhiều khó khăn về nội lực xuất phát điểm, về môi trường sản xuất kinh doanh, môi trường tâm lý xã hội, về cơ chế chính sách, quản lý nhà nước và đứng trước thách thức to lớn trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Phát triển kinh tế tư nhân 11452017

1. Quan điểm chỉ đạo và mục tiêu của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ đổi mới

Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, được coi là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường. Trước đổi mới, Việt Nam áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung, xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình của Liên Xô cũ và các nước Đông Âu. Trong mô hình này, sở hữu tư nhân và cá nhân bị coi nhẹ, mục tiêu phát triển quan hệ sản xuất là chủ yếu, xây dựng nền kinh tế hầu như khép kín, không tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế, không coi trọng đúng mức vai trò của các ngành dịch vụ, không chú trọng phát triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ và các yếu tố thị trường trong nền kinh tế. Mô hình này không phù hợp với điều kiện mới, làm cho tình hình kinh tế - xã hội của đất nước lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Trong thời kỳ đổi mới, tư duy của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về phát triển kinh tế tư nhân đã có bước phát triển và từng bước bổ sung hoàn thiện hơn qua các nhiệm kỳ Đại hội Đảng.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”1.

Đây là nhận thức mới của Đảng ta về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm phát triển kinh tế - xã hội và tích cực chủ động hội nhập quốc tế. Với bản chất cách mạng và khoa học trong học thuyết của mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã từng có những chỉ dẫn quý báu về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân dưới chế độ chủ nghĩa xã hội. Trong tác phẩm Những nguyên lý của Chủ nghĩa cộng sản viết năm 1847, Ph. Ăngghen khi được hỏi “Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không”? Câu trả lời của ông là: “Không, không thể được cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu. Cho nên, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”2.

Vận dụng chủ nghĩa Mác trong điều kiện cụ thể của nước Nga Xôviết sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, V.I. Lênin đã đề ra Chính sách kinh tế mới mùa xuân năm 1921 thay cho Chính sách cộng sản thời chiến được áp dụng trong bối cảnh nước Nga bị bao vây cấm vận trước đó. Thực chất nội dung cơ bản của Chính sách kinh tế mới là thừa nhận sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, trong đó có kinh tế tư nhân, phát triển quan hệ hàng hóa tiền tệ, coi thương mại là mắt xích quan trọng để phục hưng nền kinh tế.

Ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật, đã đánh dấu bước ngoặt của quá trình đổi mới đất nước, nhất là đổi mới tư duy kinh tế, tức là thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có kinh tế tư nhân, khẳng định quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn của nước ta là quá trình chuyển hóa nền kinh tế còn mang nhiều tính tự túc, tự cấp thành nền kinh tế hàng hóa, khẳng định sự cần thiết của việc sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ dưới xã hội chủ nghĩa, coi tính kế hoạch là đặc trưng số một, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế quản lý kinh tế mới. Như vậy, nhận thức của Đại hội VI mặc dù chưa đạt tới nhận thức về kinh tế thị trường, song đã đặt nền tảng cho sự phát triển kinh tế của Đảng ta ở các đại hội sau.

Tại các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), lần thứ VIII (1996) sau đó, chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có kinh tế tư nhân, định hướng xã hội chủ nghĩa luôn là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt về kinh tế của Đảng ta. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX của Đảng về “Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân” ngày 18-3-2002 là nghị quyết chuyên đề về kinh tế tư nhân đầu tiên, khẳng định kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân và việc phát triển mạnh kinh tế tư nhân được coi là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Tinh thần đó tiếp tục được quán triệt và làm sâu sắc hơn, rõ ràng hơn tại Đại hội X (2006) và Đại hội XI (2011) của Đảng, coi việc hoàn thiện cơ chế chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận, Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”3.

Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XII vừa qua, Đảng ta đã xác định rõ tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế tư nhân, mục tiêu tổng quát và cụ thể đối với vấn đề phát triển kinh tế tư nhân nhằm bảo đảm sự phát triển đúng định hướng và hiệu quả của thành phần kinh tế này trong bối cảnh nền kinh tế chung của đất nước đang hội nhập quốc tế sâu rộng.

Theo đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII của Đảng khẳng định: Phát triển kinh tế tư nhân là yêu cầu tất yếu, khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; là một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất, huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Chăm lo phát triển kinh tế tư nhân nhanh, lành mạnh và đúng đắn hơn, thực sự trở thành một động lực quan trọng để giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện ba đột phá chiến lược là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tích cực hội nhập quốc tế. Đồng thời nhấn mạnh, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Mục tiêu tổng quát: Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng để thực sự là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Mục tiêu cụ thể:

- Chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân, số doanh nghiệp hoạt động tăng nhanh, đặc biệt là doanh nghiệp có quy mô lớn và vừa, phấn đấu để đến năm 2020 có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp, đến năm 2025 có hơn 1,5 triệu doanh nghiệp và đến năm 2030 có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp.

- Tốc độ và quy mô đầu tư phát triển lớn hơn các thành phần kinh tế khác. Tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế khoảng từ 1,2-1,5 lần. Phấn đấu tỷ trọng đóng góp GDP trong nền kinh tế tăng qua từng năm, đến năm 2020 là khoảng 50%, năm 2025 khoảng 55%, năm 2030 khoảng 60-65%.

- Bình quân giai đoạn năm 2016-2025, năng suất lao động tăng khoảng 4-5%/năm. Thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ, chất lượng nhân lực và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với nhóm dẫn đầu ASEAN-4; nhiều doanh nghiệp của khu vực tư nhân có hoạt động đổi mới, sáng tạo, tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị trong nước, khu vực và toàn cầu.

2. Kết quả đạt được và những hạn chế còn tồn tại trong phát triển kinh tế tư nhân

Thực hiện đường lối của Đảng, qua 30 năm đổi mới, kinh tế tư nhân (bao gồm cả kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân) ở Việt Nam đã phát triển nhanh chóng, đặc biệt sau khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, số doanh nghiệp mới được thành lập ngày càng tăng. Kinh tế tư nhân đã có nhiều đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt là trong việc giải quyết công ăn việc làm, thu hút lao động dư thừa, nguồn vốn nhàn rỗi, tận dụng nguồn lực xã hội, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Theo Nghị định số 90/2001-NĐ/CP ngày 23-11-2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, với tiêu chí quy mô vốn pháp định của doanh nghiệp dưới 10 tỉ đồng, số lượng lao động sử dụng dưới 300 lao động/năm thì hiện nay khoảng 97% các doanh nghiệp của Việt Nam thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa, chủ yếu thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Điều này hoàn toàn phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của nước ta hiện nay, nhất là ở giai đoạn đầu của quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thực tế hơn 30 năm đổi mới cho thấy, kinh tế tư nhân phát huy ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân: Sau gần 5 năm thực hiện Luật doanh nghiệp (2005), cả nước có gần 108.300 doanh nghiệp mới đăng ký, đưa tổng số doanh nghiệp đăng ký lên khoảng 150.000 đơn vị, tăng gấp gần 2 lần so với chín năm trước đó (1991-1999). Làn sóng khởi nghiệp mới đã hình thành và lan rộng mạnh mẽ sau khi Luật doanh nghiệp mới (2014) và Luật đầu tư (2014) được áp dụng. Đặc biệt, năm 2016, cùng với cam kết của Thủ tướng Chính phủ quyết tâm xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo, phát triển và hành động quyết liệt đã tạo xung lực mới cho kinh tế tư nhân phát triển. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng ở mức ấn tượng, riêng năm 2016 là hơn 110.000 doanh nghiệp4. Riêng trong 7 tháng đầu năm 2017, số liệu thống kê cho thấy có 73.000 doanh nghiệp mới đăng ký thành lập và trên 17.000 doanh nghiệp hoạt động trở lại5.

Đóng góp lớn nhất và quan trọng nhất của kinh tế tư nhân là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội. Riêng số doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thu hút 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, khoảng 25-26% lực lượng lao động cả nước. Tính tổng thể, khu vực kinh tế tư nhân thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, đóng góp khoảng 39-40% GDP của cả nước, trong đó phần lớn đóng góp này từ khu vực kinh tế cá thể (30%) và từ doanh nghiệp tư nhân (9-10%).

Tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn thừa nhận rằng, bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được, nhìn chung thành phần kinh tế tư nhân hiện nay còn tồn tại nhiều hạn chế, chưa thực sự đóng vai trò là động lực quan trọng của nền kinh tế, đang đứng trước những khó khăn và thách thức lớn trong bối cảnh phát triển mới.

Về hạn chế: Kết quả của nhiều công trình nghiên cứu, điều tra cho thấy, khu vực kinh tế tư nhân hiện nay có tốc độ tăng trưởng chậm, phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp và chậm đổi mới, trình độ quản trị, năng lực tài chính, năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh còn yếu kém, chủ yếu tham gia ở phân khúc thị trường có giá trị gia tăng thấp. Bên cạnh đó, tình trạng vi phạm pháp luật, gian lận thương mại, trốn thuế, nợ thuế, cạnh tranh không lành mạnh, gây ô nhiễm môi trường, không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, không quan tâm bảo đảm lợi ích của người lao động… trong các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân còn diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng.

Về khó khăn: (1) Môi trường pháp lý chưa đồng bộ, hoàn thiện, nhiều quy định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, thiếu nhất quán, hay thay đổi phức tạp và chồng chéo, dẫn tới tình trạng các cơ quan thừa hành và các doanh nghiệp lúng túng trong việc chấp hành pháp luật; một số bộ, ngành còn chậm ban hành các văn bản hướng dẫn,... gây khó khăn trong việc đăng ký và hoạt động của doanh nghiệp tư nhân. (2) Về tổ chức quản lý nhà nước, Đại hội XII của Đảng nhận định: “Nhiều quy định trong hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách và quản lý, điều hành chưa tuân thủ đầy đủ quy luật của kinh tế thị trường, nhất là trong phân bổ nguồn lực, quản lý giá hàng hóa, dịch vụ công thiết yếu và chưa bảo đảm cạnh tranh bình đẳng. ... Quản lý nhà nước chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Cải cách hành chính và năng lực tạo dựng thể chế để bảo đảm cho doanh nghiệp, người dân tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng trong kinh tế thị trường còn nhiều hạn chế”6. (3) Về môi trường kinh doanh: Mặc dù đóng góp đến 40% GDP, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, tuy nhiên tình trạng bất bình đẳng trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân so với doanh nghiệp nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) trong việc tiếp cận mặt bằng sản xuất kinh doanh, vay vốn ngân hàng, tiếp nhận thông tin, cơ chế ưu đãi về thuế, tài chính... vẫn tồn tại và rất chậm được khắc phục. Trong bối cảnh thực tế là 97% doanh nghiệp ở nước ta thuộc loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa, nếu tình trạng bất bình đẳng trên không được giải quyết căn bản thì kinh tế tư nhân sẽ khó trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế. 

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, khó khăn trên là: lý luận và nhận thức đối với phát triển kinh tế tư nhân chưa đạt được sự đồng thuận cao, chưa tạo được bước đột phá trong đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế tư nhân và cải thiện căn bản môi trường đầu tư, kinh doanh. Việc thực hiện nhiều chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân đạt hiệu quả chưa cao, chưa đồng bộ. Xuất phát điểm và năng lực nội tại của kinh tế tư nhân Việt Nam còn thấp, yếu kém trước yêu cầu của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

3. Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII

Trong thời gian tới, để phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

Một là, thống nhất cao về nhận thức, tư tưởng, hành động trong triển khai các chủ trương, Nghị quyết của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân

Nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội về khuyến khích, tạo mọi điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, về chức năng của Nhà nước và thị trường trong nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập.

Phòng, chống có hiệu quả các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong xây dựng và tổ chức thực hiện chủ trương, cơ chế, chính sách đối với kinh tế tư nhân. Ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực, đặc biệt là phòng, chống mọi biểu hiện của “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, quan hệ “lợi ích nhóm”, “thao túng chính sách”, cạnh tranh không lành mạnh để trục lợi bất chính.

Hai là, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi trong phát triển kinh tế tư nhân

- Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư tư nhân và bảo đảm hoạt động của kinh tế tư nhân theo cơ chế thị trường. Thể chế hóa đầy đủ và bảo đảm thực hiện nghiêm minh quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản, các quyền, nghĩa vụ dân sự của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. Có các cơ chế, chính sách khuyến khích thành lập doanh nghiệp tư nhân, thu hẹp những lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực, địa bàn mà pháp luật không cấm, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.

- Khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động, tự nguyện liên kết, hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc chuyển đổi sang hoạt động kinh doanh theo mô hình doanh nghiệp thông qua các chính sách như: miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, chi phí sử dụng đất trong những năm đầu hoạt động; tư vấn, hướng dẫn cụ thể, kịp thời, nhanh chóng thủ tục thành lập doanh nghiệp, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh; tổ chức tốt công tác tài chính - kế toán; cung cấp thông tin, hướng dẫn quản trị doanh nghiệp và tư vấn pháp luật.

- Hoàn thiện và bảo đảm thực thi minh bạch, hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, đổi mới sáng tạo phong trào khởi nghiệp; tạo tiền đề hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân sở hữu hỗn hợp, bao gồm cả việc góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước có tiềm lực vững mạnh, đủ sức cạnh tranh, tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, điện tử, nông nghiệp. Có chính sách khuyến khích sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp theo hướng chủ yếu dựa vào doanh nghiệp, hợp tác xã và trang trại có quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao; chú trọng phát triển dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp; đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đào tạo nghề cho nông dân.

- Bảo đảm các cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân phù hợp với cơ chế thị trường và thúc đẩy tính tự chủ, cạnh tranh của kinh tế tư nhân; không biến các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân thành bao cấp, phục vụ “lợi ích nhóm” dưới mọi hình thức. Tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân tham gia vào quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước thông qua góp vốn, mua cổ phần để hình thành các tổ chức sản xuất kinh doanh hỗn hợp, có năng lực tài chính, quy mô hoạt động lớn, công nghệ và quản trị hiện đại, nhất là sớm phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu có khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước và quốc tế.

Ba là, hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động

- Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển, ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến. Hoàn thiện và bảo đảm thực thi hiệu quả pháp luật về sở hữu trí tuệ; phát triển các quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ; vận dụng các ưu đãi về thuế, tài chính trong việc tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi phù hợp với hoạt động nghiên cứu, đổi mới, hiện đại hóa công nghệ đối với doanh nghiệp tư nhân.

- Đẩy mạnh thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển nguồn nhân lực. Đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, nhất là đào tạo nghề, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng đủ nhu cầu số lượng và chất lượng nhân lực cho phát triển kinh tế tư nhân.

- Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Khuyến khích, động viên tinh thần kinh doanh, ý chí khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội, nhất là trong cộng đồng doanh nghiệp. Đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền, giáo dục kiến thức kinh doanh, khởi nghiệp trong toàn xã hội.

Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước

- Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; phát triển đội ngũ cán bộ, công chức liêm chính, có tư tưởng chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Nâng cao năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ chế, chính sách, kế hoạch, quy hoạch, chiến lược phát triển, tạo môi trường pháp lý và môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, an toàn cho kinh tế tư nhân phát triển lành mạnh, đúng định hướng.

- Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, trách nhiệm giải trình của các bộ, ngành, chính quyền địa phương các cấp đối với việc chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân.

- Đẩy mạnh cải cách hành chính mà trọng tâm là tạo bước đột phá trong cải cách thủ tục hành chính. Đơn giản hóa, rút ngắn thời gian xử lý các thủ tục hành chính, nhất là về thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, cấp phép, thuế, xuất - nhập khẩu, giải quyết tranh chấp, tố tụng, xét xử, thi hành án, phá sản. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa dịch vụ hành chính công, nắm bắt và xử lý kịp thời các nhu cầu, nguyện vọng, vướng mắc liên quan đến phát triển kinh tế tư nhân.

- Nâng cao năng lực, hiệu quả phối hợp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực và địa phương đối với kinh tế tư nhân, bao gồm cả việc bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Thực hiện phân cấp mạnh mẽ cho chính quyền địa phương, phát huy tính chủ động sáng tạo, phù hợp với đặc thù địa phương gắn với trách nhiệm. Hoàn thiện và công khai, minh bạch hệ thống thông tin kinh tế - xã hội, cơ sở dữ liệu, văn bản quy phạm pháp luật, các quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển, cơ chế, chính sách quản lý để tạo điều kiện cho hộ kinh doanh và doanh nghiệp tư nhân trong tiếp cận khai thác và sử dụng.

Năm là, đổi mới nội dung, phương thức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp đối với kinh tế tư nhân

- Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và hiệu quả hoạt động của các tổ chức đảng trong khu vực kinh tế tư nhân phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các cấp ủy đảng tăng cường chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất cao trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về chủ trương nhất quán trong phát triển kinh tế tư nhân của Đảng và Nhà nước; lãnh đạo thực hiện có hiệu quả, công khai, minh bạch các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân.

- Nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp trong giám sát, phản biện chính sách phát triển kinh tế tư nhân.

PGS. TSKH. TRẦN NGUYỄN TUYÊN

Hội đồng Lý luận Trung ương

1, 3, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 102-103, 107-108, 248.

2. C. Mác và Ph. Ănghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 469.

4. “Xuân Khởi nghiệp 2017”, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 20-30, ngày 24 tháng 1 đến ngày 4-2-2017, tr. 4.

5. “Cố gắng hoàn thành mục tiêu tăng trưởng”, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 185+186, ngày 4, 5-8-2017, tr. 5.

Bình luận