Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay

Ngày đăng: 20/10/2015 - 10:10

Việc phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý là biểu hiện cao nhất, đầy đủ nhất quyền bình đẳng giới của phụ nữ. Việc tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo, quản lý không chỉ là một tiêu chí quan trọng của bình đẳng giới mà còn là động lực thúc đẩy mức độ bình đẳng giới. Khi người phụ nữ ở vị trí lãnh đạo, quản lý, việc ban hành các chính sách và tổ chức thực hiện các chính sách có lồng ghép vấn đề bình đẳng giới sẽ thuận lợi hơn. Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để phụ nữ ngày càng giữ nhiều vị trí chủ chốt trong hệ thống chính trị. Chính vì vậy, đánh giá những thành công, hạn chế của công tác cán bộ nữ thời gian qua, đặc biệt là nhìn nhận đúng đắn, khách quan nguyên nhân của những hạn chế sẽ giúp chúng ta có những giải pháp hiệu quả hơn về việc bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị.

Qho305

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân. Ảnh minh họa.

1. Thực trạng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam và những rào cản hạn chế phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý

Có thể nói, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc giải phóng phụ nữ, coi đó là một nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng. Đảng có nhiều văn kiện, nghị quyết về công tác cán bộ nữ như Chỉ thị số 37/CT-TW ngày 16-5-1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ trong tình hình mới, Nghị quyết  số 04-NQ/TW của Bộ Chính trị cũng đã đặt vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ nữ thành nhiệm vụ có tính chiến lược trong toàn bộ công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước. Những nghị quyết, chỉ thị đó là cơ sở để Đảng và Nhà nước ta có những chính sách, biện pháp cụ thể nhằm tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý. Do đó, số lượng phụ nữ được giữ trọng trách trong hệ thống chính trị ngày càng tăng. Điều đó được thể hiện cụ thể qua những số liệu sau.

Theo thống kê, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đã tăng hơn 20% từ khóa I (2,5%) đến khóa XII (25,7%), trong đó 6/12 khóa có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội là 25% trở lên. Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004-2011 ở ba cấp đều dưới 30%, cụ thể cấp tỉnh đạt 23,88%, cấp huyện 22,94% và cấp xã đạt 20,1%. Nhiệm kỳ 2010-2015, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy đạt tỷ lệ như sau: cấp tỉnh đạt 11,3%, cấp huyện đạt 15,15%, cấp xã 17,98%. Tỷ lệ nữ ủy viên chính thức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI vừa đạt 8,57%, tỷ lệ nữ ủy viên dự khuyết đạt 12%[1]. Đó là kết quả của những nỗ lực, cố gắng của bản thân các nữ cán bộ nói riêng và cả hệ thống chính trị ở nước ta thời gian qua nói chung. Tuy nhiên, công tác cán bộ nữ vẫn còn nhiều hạn chế. Mặc dù tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội là đáng ghi nhận so với các nước Đông Nam Á nhưng Việt Nam không có nhiều đại diện nữ nắm giữ các vị trí lãnh đạo cao cấp.. Tỷ lệ nữ là bộ trưởng cũng còn thấp. Những cán bộ nữ nắm giữ được những vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị thường đã nhiều tuổi, không có nhiều thời gian để phát huy hết năng lực của mình. Nữ lãnh đạo, quản lý cấp vụ trở lên ở cấp Trung ương và cán bộ nữ chủ chốt cấp tỉnh hiện nay hầu hết đều ở độ tuổi trên 50, tỷ lệ cán bộ nữ cấp phòng ở huyện, quận giảm[2]. Nếu so sánh về việc phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở nước ta với một số nước phát triển thì vẫn còn một khoảng cách xa. Năm 2008, tỷ lệ đại biểu nữ trong Nghị viện Phần Lan là 84/200, đại biểu Quốc hội chiếm 40%; trong tổng số 20 bộ trưởng của Chính phủ thì có tới 11 bộ trưởng là nữ giới[3]. Phần Lan có nữ tổng thống vào năm 2000 và tài đắc cử vào năm 2006 (bà Tarja Halonen). Năm 2010, Phần Lan có một nữ thủ tướng và là chủ tịch một đảng cầm quyền (Đảng Trung tâm). Tỷ lệ nữ trong đại biểu Quốc hội chiếm 40%, 50% toàn nội các... Có đến 38% tổng số chính quyền địa phương có 9/19 bộ, 4/7 đảng do phụ nữ đứng đầu. Các đảng phái chính trị ở Phần Lan đều thực hiện giới thiệu nữ vào ban lãnh đạo cũng như tham gia ứng cử chính quyền các cấp bằng cách lập danh sách ứng cử xen kẽ một nam, một nữ. Na Uy có hệ thống đào tạo cán bộ lãnh đạo nữ rất tốt cho cả khu vực công và tư. Ở Thụy Điển, tỷ lệ nữ tham gia nội các Chính phủ là 50% và 47% đại biểu Quốc hội là nữ. Như vậy, so với những nước này, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội của Việt Nam vẫn thấp hơn (25% so với khoảng hơn 40%). Vậy lý do tại sao mà phụ nữ Việt Nam mặc dù vị thế trong lĩnh vực chính trị của họ đã được nâng lên nhưng vẫn còn hạn chế. Điều này có thể được lý giải từ một số nguyên nhân sau:

Thứ nhất, do còn tồn tại sự chênh lệch giới trong công tác giáo dục

Trình độ học vấn là một yếu tố quan trọng cấu thành năng lực của người cán bộ. Vì vậy, đây cũng là một trong những tiêu chí quan trọng để đề bạt, bổ nhiệm phụ nữ vào những vị trí lãnh đạo, quản lý chủ chốt. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tuy mức độ chênh lệch về trình độ giữa nam và nữ ở cấp học thấp không đáng kể nhưng ở trình độ học vấn càng cao thì mức chênh lệch về giới lại càng lớn. Tỷ lệ nữ giới đạt học vị tiến sĩ, tiến sĩ khoa học, giáo sư thấp hơn khoảng từ 5 đến 18 lần so với nam giới. Năm 2007, tỷ lệ cán bộ nữ được phong hàm phó giáo sư chỉ chiếm 11,67%, trong khi đó tỷ lệ này của nam giới là 88,33%. Đối với học hàm giáo sư, phụ nữ cũng chỉ chiếm 5,1%, nam giới chiếm tới 94,9%. Học vị tiến sĩ khoa học, nam giới - 90,22%, phụ nữ - 9,78%; học vị tiến sĩ, nam giới - 82,98%, phụ nữ - 17,02%[4]. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch giới về trình độ học vấn ở mức cao như: ở lứa tuổi này, phụ nữ thường bận rộn với công việc gia đình, sinh con và chăm sóc con, phụ nữ thường nhường cơ hội học tập cao cho người chồng của mình… Tuy nhiên, khi tỷ lệ phụ nữ có trình độ học vấn cao thấp hơn nam giới thì họ sẽ bị thua kém hơn về cơ hội trong việc tham gia vào các vị trí lãnh đạo, quản lý.

Thứ hai, định kiến giới vẫn còn tồn tại

Việt Nam là một nước nông nghiệp, trải qua hàng nghìn năm thuộc địa phong kiến nên ý thức hệ phong kiến với quan niệm “trọng nam khinh nữ”; việc làm quan, công việc đại sự là của nam giới, phụ nữ chỉ lo việc bếp núc trong nhà, đã ăn sâu vào nếp nghĩ của không ít người. Mặc dù hiện nay pháp luật đã dần công nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực nhưng tâm lý này vẫn còn tồn tại trong một bộ phận nhân dân, trong đó có một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý. Điều đó là một trở ngại cho sự tham gia công tác lãnh đạo, quản lý của nữ giới. Bởi lẽ khi cấp trên không tin tưởng thì sẽ không cất nhắc, đề bạt họ lên những vị trí quan trọng, chủ chốt, không mạnh dạn giao việc cho cán bộ nữ đúng lúc, đúng việc, đúng tầm.

Thứ ba, tâm lý tự ti, an phận của phụ nữ

Do hoàn cảnh lịch sử để lại, phụ nữ ít có điều kiện, cơ hội để tham gia những công việc trọng đại của cộng đồng, đất nước, ít có cơ hội để khẳng định mình trước nam giới. Chính vì vậy, đã hình thành tâm lý tự ti, thiếu tin tưởng vào khả năng của mình trong chính bản thân phụ nữ. Hơn nữa, với thiên chức làm vợ, làm mẹ của mình, người phụ nữ có trọng trách rất lớn trong việc xây dựng gia đình. Chế độ xã hội phong kiến kéo dài hàng nghìn năm đã cột chặt người phụ nữ vào trọng trách đó. Do vậy, mặc dù khi xã hội phát triển, phụ nữ được tham gia các hoạt động xã hội nhiều hơn nhưng trước mâu thuẫn giữa sự nghiệp và gia đình, nhiều phụ nữ có tâm lý an phận, đặt gia đình quan trọng hơn sự nghiệp. Họ chấp nhận tham gia các hoạt động xã hội ít đi để có thể dành được nhiều thời gian lo lắng, chăm sóc cho gia đình hơn. Thế nên, ngay bản thân phụ nữ cũng đã tự dưng lên cho mình trở ngại trong việc tham gia lãnh đạo, quản lý. Kết quả khảo sát thực tế về những khó khăn, cản trở mục tiêu sự nghiệp phân tích theo giới tính cũng cho thấy, lý do vì là phụ nữ chiếm 10,7%, trong khi tỷ lệ tương ứng này ở nam giới chỉ là 1%[5].

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định. Anh hùng LLVT nhân dân Việt Nam.

2. Giải pháp để tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý

Thứ nhất, khắc phục định kiến giới

Phụ nữ phải được xã hội và đặc biệt là nam giới tôn trọng, ủng hộ thì vai trò của họ trong xã hội mới được phát huy. Nếu những cán bộ lãnh đạo quản lý có nhận thức đúng đắn về giới thì họ sẽ công bằng hơn trong đào tạo, đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ dù là nam hay nữ. Nếu nam giới nhận thức đúng đắn hơn về bình đẳng giới thì họ sẽ cùng chia sẻ, gánh vác công việc gia đình với phụ nữ theo điều kiện và khả năng có thể, tạo điều kiện cho phụ nữ có thêm cơ hội để nâng cao trình độ học vấn, có thêm thời gian để làm việc, cống hiến và tham gia công tác lãnh đạo, quản lý. Tuy nhiên, để xóa bỏ một tâm lý, tư tưởng đã ăn sâu trong nếp nghĩ của nhiều thế hệ người Việt Nam không phải là việc dễ dàng, nó đòi hỏi nỗ lực cao độ trong công tác giáo dục về bình đẳng giới. Bởi lẽ mặc dù pháp luật đã thừa nhận sự bình đẳng giới bằng văn bản chính thống, nhưng nếu những tư tưởng, định kiến về giới vẫn còn tồn tại dù là không công khai thì cũng vẫn là cản trở rất lớn đối với việc tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ. Chính vì vậy “đào tạo lại thế hệ người lớn tuổi hiện nay là cần thiết, nhưng quan trọng hơn là đào tạo thế hệ trẻ, bởi vì chính thế hệ trẻ (có lẽ phải vài ba thế hệ kế tiếp nhau) mới có khả năng vượt qua những định kiến do lịch sử để lại, rằng việc làm quan là việc của đàn ông, còn việc nội trợ là việc của đàn bà”[6].

Thứ hai, có kế hoạch phát triển cán bộ nữ cụ thể

Việc thay đổi định kiến về giới phải được biểu hiện bằng những hành động mang tính thực tế, đó là phải có kế hoạch phát triển cán bộ nữ mang tính chiến lược lâu dài và có tính đột phá. Chính vì vậy, cấp ủy và người đứng đầu cơ quan, đơn vị cần phải có kế hoạch thiết thực trong việc đào tạo, bồi dưỡng và cất nhắc cán bộ nữ. Tức là các cấp lãnh đạo cần phải thường xuyên quan tâm, xây dựng chỉ tiêu cụ thể, chi tiết trong từng năm, từng thời kỳ cho công tác cán bộ nữ và nghiêm túc thực hiện. Trong đó, phải coi việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ là khâu nền tảng. Nếu không chú ý đến việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ thì phụ nữ sẽ khó hội tụ đủ điều kiện và tiêu chuẩn để được đề bạt, bổ nhiệm, cất nhắc. Thứ ba, bản thân phụ nữ phải cố gắng vươn lên

Nếu như Đảng và Nhà nước tạo mọi điều kiện để phụ nữ phát huy hết khả năng, trí tuệ của mình mà chính bản thân phụ nữ không cố gắng vươn lên thì cũng không có ý nghĩa gì. Vì vậy, phụ nữ trước hết phải xóa bỏ tâm lý tự ti và tin tưởng vào khả năng của mình. Khi đủ tự tin, phụ nữ sẽ không quản ngại khó khăn, sẽ nỗ lực học tập để khẳng định mình, bởi lẽ chỉ có tự nâng cao trình độ, trí tuệ thì phụ nữ mới có thể đảm đương được mọi công việc mà Đảng và Nhà nước giao phó. Nếu không khẳng định được năng lực của mình tương xứng với nam giới thì công tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ nữ sẽ gặp rất nhiều khó khăn.

Thứ tư, phát triển các dịch vụ xã hội về gia đình

Lãnh đạo, quản lý cũng là một loại lao động chất lượng cao, đòi hỏi nhiều trí tuệ và chất xám. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng điều kiện để người phụ nữ có thể tham gia vào nền sản xuất xã hội là phải làm công việc nhà rất ít. Trong khi đó, thực tế cho thấy, phụ nữ hầu như phải dành nhiều thời gian và tâm sức hơn nam giới cho công việc gia đình. Do đó, để phụ nữ có thể phát huy hết khả năng của mình trong công tác lãnh đạo, quản lý thì phải phát triển tốt các dịch vụ liên quan đến gia đình như nhà trẻ, nhà hàng, dịch vụ dọn dẹp nhà cửa… nhằm giải phóng phụ nữ khỏi một phần công việc gia đình. Nhà nước cần đầu tư, phát triển rộng khắp các dịch vụ xã hội liên quan đến gia đình với mức chi phí phù hợp để nhiều gia đình có thể sử dụng các dịch vụ này.

Các giải pháp trên phải được thực hiện một cách đồng bộ mới có thể góp phần vào việc tăng cường sự tham gia của phụ nữ Việt Nam vào các vị trí lãnh đạo, quản lý. Nó đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng thay đổi trong cả nhận thức và hành động của toàn xã hội, cả nam giới và nữ giới. Việc thực hiện bình đẳng giới nói chung, bình đẳng giới trong chính trị nói riêng, là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, không phải là công việc của riêng một giới nào./.

    

Tài liệu tham khảo: 

1) Hà Thị Thùy Dương: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý”, tạp chí Tổ chức Nhà nước, số tháng 3 năm 2014.

2) Nguyễn Đức Hạt: Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.

3) Lê Thi: Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1999.

ThS. Trịnh Xuân Thắng

Học viện Chính trị khu vực IV

 

*****

1. Theo http: //www.ubphunu-ncfaw.gov.vn ngày 15-4-2011.

2. Xem Phạm Hạnh Sâm: Định kiến giới - Rào cản đối với sự tiến bộ và phát triển của phụ nữ Việt Nam, thongtinphapluatdansu, wordpress/2009/10/14/3921.

4. Theo Báo cáo kết quả giám sát thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam, năm 2009, www.na.gov.vn.

5. Nguyễn Đức Hạt, Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 352.

6. Nguyễn Đức Hạt, Sđd, tr. 217.

 

 

 

 

 

Bình luận