"Lá chắn thép" Phan Rang - Nhìn từ phía bên kia

Ngày đăng: 30/04/2016 - 08:04

"Lá chắn thép" Phan Rang - tuyến phòng thủ từ xa để bảo vệ Sài Gòn bị đập tan, đánh dấu sự thất bại trong nỗ lực cuối cùng của quân địch để bảo vệ chế độ Sài Gòn. Sự thất bại này của địch sẽ được nhìn nhận, đánh ía một cách khách quan hơn từ chính những người ở bên kia chiến tuyến.

ttxvn mien nam

Sau khi Chiến dịch tiến công Tây Nguyên giành thắng lợi, nắm chắc thời cơ chiến lược, ngày 25-3-1975, quân và dân ta tiếp tục tiến công giải phóng Trị - Thiên - Huế, Đà Nẵng. Trước nguy cơ sụp đổ đang đến gần, nhằm cứu vãn tình thế, dưới sự chỉ đạo của cố vấn Mỹ, chính quyền Việt Nam cộng hòa vội vã thiết lập tuyến phòng thủ vành đai bảo vệ Sài Gòn, kéo dài từ Phan Rang qua Xuân Lộc đến Tây Ninh. Địch xác định, Phan Rang là “Lá chắn thép”, Xuân Lộc là “Cánh cửa thép” phía đông Sài Gòn. Tại Phan Rang, chúng nhanh chóng “vơ vét” một số lượng lớn lực lượng, vũ khí và binh khí kỹ thuật quân sự hình thành nên một thế trận phòng ngự mạnh, quyết tử thủ, ngăn chặn cánh quân Duyên Hải của Quân giải phóng miền Nam đang thần tốc tiến vào giải phóng Sài Gòn.

Nhưng chỉ sau ba ngày kiên quyết chiến đấu (từ ngày 14 đến 16-4-1975), các lực lượng của ta đã đập tan tuyến phòng ngự - “Lá chắn thép” Phan Rang của quân đội Việt Nam cộng hòa, tạo bước chuyển căn bản về cục diện chiến tranh, làm thất bại ý đồ co cụm chiến lược của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, tạo điều kiện và mở ra thời cơ hết sức thuận lợi để các lực lượng vũ trang và nhân dân ta đẩy nhanh cuộc Tổng tiến công chiến lược, tập trung lực lượng cho trận quyết chiến chiến lược, giải phóng Sài Gòn - Gia Định, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu non sông về một mối.

Đã 41 năm trôi qua, kể từ khi tuyến phòng thủ Phan Rang bị đập tan (16-4-1975 - 16-4-2016), tại Mỹ, Pháp và các nước phương Tây, nhiều hồi ký của các tướng lĩnh, công trình nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam đã lần lượt được xuất bản; nhiều bài báo, tạp chí bình luận sự kiện trên ở những góc độ khác nhau trong khoảng thời gian trước, trong và sau khi trận đánh đã được công bố với các cách nhìn nhận khác nhau. Trong khi phần lớn ý kiến đều cho rằng, “Lá chắn thép” Phan Rang bị đập tan là sự thật khách quan, minh chứng cho sức mạnh và ý chí thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam, thì cũng có không ít ý kiến trái chiều, cố tình bao biện, bào chữa rằng: Phan Rang thất thủ là do Bộ Chỉ huy quân lực Việt Nam cộng hòa chưa thống nhất, vũ khí trang bị và phương tiện quân sự không được chuyển đến kịp thời…

Nhưng thực tế là, từ giữa tháng 3-1975, sau những thất bại liên tiếp trên chiến trường cùng với thái độ “hờ hững” của phía Mỹ khiến chính quyền và quân đội Sài Gòn thêm hoang mang. Trong một nỗ lực nhằm cứu vãn phần nào tình thế đang rất nguy ngập, từ ngày 13 tháng 3, Nguyễn Văn Thiệu cử phái đoàn gồm nhiều dân biểu Quốc hội Việt Nam cộng hòa sang Oasinhtơn, tìm cách vận động Nhà Trắng tăng viện cho chế độ Sài Gòn. Tuy nhiên, sự “cầu cứu” cuối cùng này đã bị Mỹ khước từ1 . Ngày 28-3- 1975, Tham mưu trưởng lục quân Mỹ, tướng Frederick C. Weyand cùng một số chuyên gia quân sự đã gấp rút sang Nam Việt Nam để xem xét tình hình. Tại Sài Gòn, Weyand thống nhất với Nguyễn Văn Thiệu về việc tổ chức tuyến phòng ngự từ xa và đề ra các giải pháp nhằm cầm cự, chờ đến mùa mưa sẽ tổ chức phản công, hòng giành lại những địa bàn đã mất. Trở về Oasinhtơn, Weyand mang theo đề nghị của Nguyễn Văn Thiệu, xin thêm 722 triệu đôla Mỹ viện trợ khẩn cấp. Và đề nghị này cũng đã bị Nhà Trắng thẳng thừng bác bỏ.

Không được đáp ứng những yêu cầu trên, tối 1-4-1975, tại Dinh Độc lập, trong tâm trạng tuyệt vọng, Nguyễn Văn Thiệu nói với Cao Văn Viên - Tổng Tham mưu trưởng quân lực Việt Nam cộng hòa, rằng: “Mình muốn giữ, nhưng tướng tại trận không giữ nổi, phần nữa do Oasinhtơn không mặn mà viện trợ, biết làm sao?”. Tướng Viên nói: “Chiều hôm qua, Weyand có gọi điện thoại nói với tôi rằng: Bỏ Nha Trang, Cam Ranh thì bằng mọi giá phải giữ lấy Phan Rang, còn Phan Rang thì máy bay còn đánh được tới Đà Nẵng; mất Phan Rang thì cộng sản có thể dùng sân bay này để tiến công Sài Gòn”.

Như vậy, Nguyễn Văn Thiệu và Cao Văn Viên đều thống nhất tổ chức tuyến phòng ngự đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Chỉ huy tiền phương Quân khu 3 quân lực Việt Nam cộng hòa ở tỉnh Ninh Thuận và thị xã Phan Rang, hòng cố thủ và ngăn chặn bước tiến mạnh mẽ của các binh đoàn cơ động chiến lược Quân giải phóng miền Nam. Trong khối tài liệu thu giữ được của Việt Nam cộng hòa đã thể hiện thái độ của Thiệu tại cuộc họp với các cộng sự khi chuẩn bị thành lập tuyến phòng thủ Phan Rang: “Thiệu nín lặng hồi lâu trước tấm bản đồ Quân khu 2 với 11 tỉnh đã bị bôi đỏ, chỉ còn lại hai tỉnh cuối cùng. Đột nhiên, Thiệu đấm mạnh tay xuống bàn, ra lệnh: “Phải giữ bằng được Phan Rang, lập một cái “lá chắn” ở đấy để chặn đường bộ, đường biển của cộng sản”2.

Chấp hành mệnh lệnh của Nguyễn Văn Thiệu, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn vội vã bay ra Phan Rang, triển khai kế hoạch lập tuyến phòng thủ Phan Rang, với lực lượng, vũ khí trang bị mạnh, có hỏa lực không quân, pháo binh, hải quân tại chỗ chi viện tối đa, có khả năng cơ động nhanh từ lực lượng không quân ở sân bay Thành Sơn, hải quân ở Ninh Chữ, cùng với xe tăng, xe bọc thép. Sở Chỉ huy tiền phương của Quân khu 3 đặt ngay tại tỉnh lỵ Phan Rang; Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm chỉ huy trưởng. Sau khi công việc hoàn tất, tướng Toàn còn khích lệ cán binh thuộc quyền, rằng: “Anh em binh lính cứ yên tâm, cộng sản vừa nuốt một thắng lợi quá lớn, chúng chưa thể dốc toàn bộ lực lượng đánh vào Quân khu 3 được ngay, vì sắp tới là mùa mưa rồi”.

Trái với tinh thần lạc quan của tướng Toàn, trong báo cáo về tình hình Phan Rang của Bộ Tư lệnh tiền phương Quân khu 3 gửi Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn ghi rõ: “Từ đầu tháng 4-1975, tình hình trở nên hỗn loạn, nhốn nháo, công chức bỏ vị trí phòng thủ; tỉnh trưởng, tiểu khu trưởng Ninh Thuận bỏ Phan Rang sau khi ra lệnh thiêu hủy một số dụng cụ và phương tiện thiết yếu”3. Tướng Times - phụ trách an ninh Tòa Đại sứ Mỹ đến thăm căn cứ và đưa ra yêu cầu: “Không hiểu Việt cộng sẽ dàn quân thế nào, người của các ông (Việt Nam cộng hòa), phải thường xuyên ở lại đây để chuyển ngay tin tức về Tòa Đại sứ Mỹ”4.

Theo dõi sát diễn biến chiến trường miền Nam Việt Nam trong những ngày đầu tháng 4 năm 1975, một số nhà nghiên cứu quân sự phương Tây cho rằng: “Nhìn vào thực tế của Mỹ và chính quyền Sài Gòn thì tình hình xấu đi về mọi mặt, không hiểu số phận của cuộc chiến đi đến đâu, nhân dân yêu chuộng tự do và hòa bình ở Pháp và các nước phương Tây đều bất bình. Bản thân cuộc chiến có lẽ sắp đến hồi kết”5.

Thời cơ lớn để giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đã cận kề, cả nước vào trận. Sự chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược vào trung tâm Sài Gòn, kết thúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đầy gian lao và anh dũng diễn ra với khí thế vô cùng khẩn trương “một ngày bằng 20 năm”. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược đó, chúng ta phải đập tan “Lá chắn thép” - tuyến phòng ngự từ xa của địch ở Phan Rang - cố gắng cuối cùng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Thực hiện mệnh lệnh của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh giao phó, bắt đầu từ ngày 14-4-1975, Sư đoàn 3 Quân khu 5 và Trung đoàn 25 Tây Nguyên tiếp tục đột phá vào tuyến phòng thủ Phan Rang, chiếm một số chốt điểm quan trọng án ngữ vùng ngoại vi thị xã, trong đó có cảng Ninh Chữ, chặn đường rút chạy ra biển của địch. Quân đội Sài Gòn tập trung lực lượng, dựa vào công sự trận địa phòng ngự chống trả quyết liệt. Trước tình hình đó, Trung đoàn 52 thuộc Sư đoàn 3 sử dụng Tiểu đoàn 2 luồn sâu vào phía nam, bất ngờ đánh chiếm hai chốt điểm, giải phóng ấp chiến lược Ba Râu, chia cắt Quốc lộ số 1. Trong khi đó, từ hướng tây bắc, Trung đoàn 25 Tây Nguyên theo Đường số 11 đánh bại các đợt phản kích của Lữ đoàn 2 dù, áp sát sân bay Thành Sơn, chiếm toàn bộ dải phòng ngự vòng ngoài thị xã Phan Rang.

Ngày 14-4-1975, Trung tướng Trần Văn Đôn - Tổng trưởng Quốc phòng Việt Nam cộng hòa mời Thiếu tướng Smith - Tùy viên quân sự tòa Đại sứ Mỹ đến gặp tại Văn phòng. Tại đây, tướng Đôn yêu cầu tướng Smith cung cấp những loại vũ khí mà quân lực Việt Nam cộng hòa đang cần như bom CBU6, ống nhòm và máy truyền tin cho các đơn vị chiến đấu. Thiếu tướng Smith trả lời ngay rằng hiện trong kho của Hoa Kỳ không còn những loại này. Trước thông tin này, tuy chưa biết thực hư của vấn đề ra sao, nhưng giới báo chí phương Tây đã công khai bình luận: “Trong khi Mỹ né tránh cung cấp vũ khí phục vụ cuộc chiến thì Bắc Việt trang bị đủ vũ khí hiện đại và tung vào đó những đơn vị giỏi nhất tại mặt trận Phan Rang này”7.

Sang ngày 16-4-1975, sự lo ngại của Bộ Tư lệnh tiền phương Quân khu 3 do tướng Nguyễn Vĩnh Nghi cầm đầu đã thành sự thật. Báo Tia sáng tại Sài Gòn đã miêu tả chi tiết: “Cộng quân bắt đầu pháo kích dữ dội, chỉ 8 giờ sáng mà toàn bộ ấp Ba Râu bốc cháy; Cộng quân dùng đủ loại hỏa lực mạnh áp đảo. Sau khi phá tan Ba Râu, Cộng quân chuyển pháo sang ấp Kiền Kiền, nơi vị trí đóng quân của Bộ Chỉ huy tiểu đoàn Biệt động quân”8. Còn J. Van - cố vấn quân sự Mỹ của Vùng 3 chiến thuật thì nhận định rằng: “Tại Phan Rang, pháo binh của cộng sản Bắc Việt liên tục nã vào phi trường Thành Sơn. Đến 4 giờ sáng ngày 16-4-1975, pháo binh cộng sản im bặt, nhưng chỉ sau đó ít phút, pháo binh cộng sản lại tiếp tục nã pháo”9. Rồi tiếp đó, để “dọn đường cho bộ binh tấn công và căn cứ không quân Phan Rang và trung tâm thị xã, Cộng quân đã nã pháo liên tục các vị trí phòng ngự vòng quanh căn cứ không quân, đồng thời bắn phá dồn dập vào khu vực phi cơ đậu…”10. Theo tài liệu ghi lại của Bộ Quốc phòng Mỹ thì: “Tình hình trở nên bi thảm, lực lượng phòng thủ thị xã chống trả quyết liệt, nhưng do cộng quân quá đông nên các tuyến phòng thủ trung tâm thị xã đều lần lượt bị chiếm. Thị xã Phan Rang thất thủ vào sáng sớm ngày 16-4-1975”11. Hai tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Phạm Ngọc Sang cùng toàn bộ các sĩ quan Bộ Tư lệnh tiền phương Quân khu 3 của quân đội Việt Nam cộng hòa bị bắt sống. Sư đoàn 6 không quân, Sư đoàn 2 bộ binh, Lữ đoàn 2 dù, Liên đoàn 31 biệt động quân, lực lượng địch ở tiểu khu Ninh Thuận bị tiêu diệt và tan rã. Đây là đòn đánh gây choáng váng mạnh đối với Mỹ và Việt Nam cộng hòa.

Nhiều báo chí Pháp, Mỹ và phương Tây bình luận và đưa ra nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của Mỹ và Việt Nam cộng hòa.

Nguyên nhân thứ nhất được Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng, Tư lệnh Sư đoàn Dù và Trung tướng Trần Văn Minh - Tư lệnh Không quân thống nhất cho rằng: do sự bất đồng về việc Mỹ không chịu cung cấp các vũ khí hiện đại và các nhu yếu phẩm khác cho binh sỹ, dẫn đến tinh thần binh lính bạc nhược nên thất bại là điều tất yếu. Cùng chung nhận định này, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi - tướng bại trận tại Phan Rang thú nhận: “Việc cung cấp nhiên liệu gặp nhiều khó khăn trở ngại vì xe bồn không chạy được như bình thường mà nguyên nhân là cảng Cam Ranh đã bị chiếm. Vì vậy, hằng ngày, tôi phải nhận tiếp tế từ Sài Gòn bằng máy bay C-130 nhưng số lượng chỉ đáp ứng tối thiểu mà thôi”12. Theo lời tự thuật của Thiếu tướng Nguyễn Phi Long - người hỏi cung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, thì ngoài nguyên nhân trên còn do “binh lính (quân đội Sài Gòn - TG) mất hết tinh thần không chịu chiến đấu” và “thiếu thời gian”13.

Theo hồi ức của Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang thì: “Trong trận Phan Rang, việc biến căn cứ không quân Thành Sơn trở thành tiền đồn là điều sai lầm vì khi cần máy bay xuất kích thì dưới làn đạn pháo kích của đối phương lại không thể sửa chữa, trang bị cho máy bay có khả năng cất cánh hành quân như yêu cầu được. Yếu thế, thua trận trước sự tấn công của Bắc Việt là ở chỗ đó”14. Còn Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng lại khẳng định là “do bị bất ngờ vì không có được những đơn vị thiện chiến như đã hứa trước lúc ra nhận trách nhiệm phòng thủ Phan Rang, mà đa số là các đơn vị có sức chiến đấu tồi. Đó là cảnh báo từ trước khi bước vào trận đánh Phan Rang mà kết cục rồi sẽ xảy ra”15.

Nguyên nhân thứ hai được chính tướng Nguyễn Vĩnh Nghi thú nhận khi bị bắt làm tù binh, đã tự khai trong bản cung về quân đội Việt Nam cộng hòa, từ vũ khí, khí tài đến cách bố trí lực lượng rồi thú nhận: “Cách phòng thủ Sài Gòn của quân đội Việt Nam cộng hòa là phòng thủ từ xa theo hình vòng cung từ Gò Dầu Hạ, Lai Khê, Biên Hòa, Xuân Lộc, lực lượng mỗi hướng có khoảng một sư đoàn. Còn trong nội đô thì không có chủ lực, không tổ chức phòng ngự kiên cố, chỉ có lực lượng cảnh sát, địa phương quân, nhân dân tự vệ… Nếu các ông diệt được lực lượng án ngữ vòng ngoài, khống chế và làm tê liệt sân bay Tân Sơn Nhất, sân bay Biên Hòa và chiếm được hai mục tiêu quan trọng là Bộ Tổng tham mưu và trại Hoàng Hoa Thám của quân dù thì các ông sẽ làm chủ và Sài Gòn sẽ sụp đổ nhanh chóng”16.

Bổ sung xác đáng cho những nguyên nhân thất bại mà chính những “nhân chứng bại trận” của quân đội Việt Nam cộng hòa thú nhận, là những bài diễn văn của Đảng Cộng sản Pháp, những cuộc tranh luận công khai trên đài phát thanh ở Pháp đã khẳng định: “Liên tiếp trong 16 ngày cuối tháng 4-1975, một căn cứ không quân bỗng trở thành một tiền đồn, vừa thi hành các phi vụ, vừa tham gia chiến đấu như bộ binh thì thảm bại là điều chắc chắn. Đó cũng là cách nghĩ, cách làm sai lầm của Thiệu và các cộng sự”17. Còn Tập san Quốc tế đưa ra bình luận: “Phòng tuyến Phan Rang, cố gắng cuối cùng của Mỹ và Việt Nam cộng hòa đã đến hồi kết…”. Thực tế, âm mưu ngăn chặn từ xa của Mỹ - Thiệu để có thêm thời gian điều chỉnh và củng cố thế trận ở Sài Gòn bị thất bại hoàn toàn. Thắng lợi trong trận tiến công đập tan “Lá chắn thép” Phan Rang đã mở thông đường cho các binh đoàn chủ lực Quân giải phóng miền Nam thần tốc hành tiến vào tổng công kích sào huyệt cuối cùng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Sau khi Phan Rang thất thủ, “sáng ngày 18-4-1975, Tổng thống Việt Nam cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu đã tiếp một số nhân vật ôn hòa. Họ đều nói cho Nguyễn Văn Thiệu biết rằng, thời của ông đã hết và họ mong muốn một sự rút lui êm ả. Trong khi đó, tại Thượng viện và Hạ viện, những người đối lập không giấu giếm ý muốn lấy thủ cấp chính trị của Nguyễn Văn Thiệu. Kể cả phe cực hữu cũng muốn Nguyễn Văn Thiệu phải ra đi. Theo họ, ông ta phải chịu trách nhiệm về những thất bại quân sự quá chóng vánh vừa qua”18. Tất thảy những áp lực trên, cùng với sự thua trận về quân sự đã dẫn đến kết quả là “19 giờ tối 21-4-1975, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức sau 10 năm ngồi ghế Tổng thống Việt Nam cộng hòa. Ngay sau đó, Thượng nghị viện đã chỉ định ông Trần Văn Hương giữ chức vụ này với một nhiệm vụ duy nhất: bằng mọi cách, phải mở được một cuộc đàm phán với đối phương. Nhiều người trách cứ Thiệu là đã ra đi quá muộn, để tình hình quá nát đến mức không còn có thể cứu vớt được gì. Tuy nhiên, đó không chỉ là lỗi của riêng ông ta. Người muốn giữ Nguyễn Văn Thiệu thêm một thời gian nữa không phải ai khác mà chính là Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin”19.  

Tựu trung lại, tuy còn có sự nhận thức chưa đồng thuận xung quanh một số vấn đề liên quan đến nhìn nhận, đánh giá về tuyến phòng thủ chiến lược bảo vệ Sài Gòn từ xa - “Lá chắn thép” Phan Rang, song phần lớn đều gặp nhau ở một điểm mà như nhà nghiên cứu W.Noolan nhận xét: “Đây là cố gắng cuối cùng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, nhưng đã thất bại thảm hại”20.

Thượng tá, TS. Trương Mai Hương

Viện Lịch sử quân sự Việt Nam

 

 1. Trong phái đoàn này, có Đinh Văn Đệ - một cơ sở tình báo của ta, lúc bấy giờ là Chủ tịch Ủy ban Quốc hội Hạ nghị viện của chế độ Sài Gòn. Đinh Văn Đệ tìm cách mô tả tình hình nguy ngập, không phương cứu chữa của chế độ Sài Gòn cho đến thời điểm đó, nhằm làm nản lòng hơn nữa Quốc hội Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

2. Tài liệu Việt Nam cộng hòa, lưu Thư viện Trung ương Quân đội.

3. Theo Báo cáo số 18 của Việt Nam cộng hòa, lưu Thông tấn xã Việt Nam.

4. Theo Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ, lưu Cục Lưu trữ, Văn phòng Trung ương Đảng.

5. Báo Pháp Paris Pret (Paris X.press), số ra ngày 4-4-1975.

6. CBU là loại bom chùm hàng không dạng cátxét, gồm CBU-24, rải bom bi dạng “quả ổi” để sát thương vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự và sinh lực đối phương; CBU-55, kiểu nổ xon khí, dùng để diệt sinh lực đối phương và dọn bãi cho máy bay trực thăng đổ bộ (Xem thêm: Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr. 135).

7. Nhận xét của John Van, cố vấn quân sự Mỹ của Vùng 3 chiến thuật; nguồn: Neil. Shechan: Abright Shining Lie, Random House, 1988.

8, 11, 15. Tài liệu của Việt Nam cộng hòa (1974 - 1975), phông số 4, Hồ sơ 82, lưu Thông tấn xã Việt Nam.

9. Báo Pháp Paris Pret (Paris X.pess), số ra ngày 18-4-1975.

10, 17, 20. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, lưu Thư viện Trung ương Quân đội.

12. Thời báo Niu Oóc tại Mỹ, số ra ngày 24-4-1975, lưu Thông tấn xã Việt Nam.

13. Tạp chí Sự kiện và nhân chứng, số 136 (tháng 4-2005).

14, 16. Tài liệu tại Trung tâm lưu trữ văn khố quốc gia Mỹ, công bố năm 2002, lưu Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.

18. Alan Dawson: 55 ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ, người dịch Cao Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1990, tr. 66.

19, 20. Dương Hảo: Một chương bi thảm, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1980, tr. 241, 242.  

         

Bình luận