Tiến trình hội nhập của Việt Nam qua các thời kỳ và vấn đề đặt ra

Ngày đăng: 24/05/2016 - 08:05

Thuật ngữ "hội nhập" được Đảng ta chính thức sử dụng trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII năm 1996, thay thế cho từ "hội nhập" nhằm tránh sự hiểu lầm, làm mất đi  bản sắc dân tộc. Trên thực tế, hội nhập đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm, gắn liền với tiên trình lịch sử đấu tranh đánh giặc ngoại xâm của dân tộc, tùy theo điều kiện địa - chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau mà có cách ứng xử khác nhau trong quan hệ với nước ngoài.

Việt Nam cần có những đối tác lớn để hội nhập và phát triển. Nguồn internet

1. Khái quát quá trình hội nhập của Việt Nam qua các thời kỳ

Hội nhập của Việt Nam thời kỳ quốc gia phong kiến độc lập tự chủ

Ngay từ thời phong kiến, để xây dựng và duy trì quốc gia phong kiến độc lập tự chủ, các vương triều phong kiến đã thực hiện đường lối vừa cứng rắn, vừa mềm dẻo, linh hoạt trong quan hệ với Trung Quốc - một quốc gia phong kiến lớn với thể chế tập trung chuyên chế cao độ, luôn thể hiện tư tưởng bá quyền, thôn tính nước khác hoặc tạo nên một hệ thống chư hầu, lấy mình làm trung tâm, tự cho mình có quyền cất binh “điếu phạt”. Do các triều đại phong kiến Trung Quốc luôn muốn biến Việt Nam thành khu đệm trên con đường tràn xuống Đông Nam Á, nên Việt Nam luôn phải thường trực ứng phó với nguy cơ bị xâm lược. Thực tế đó đòi hỏi chúng ta phải có đường lối, chiến lược, sách lược ngoại giao hợp lý. Hầu hết các vương triều phong kiến Việt Nam đã kết hợp được một cách linh hoạt, khi thì cứng rắn lúc lại mềm dẻo, hòa hiếu trong ứng xử ngoại giao của mình, để khẳng định lòng tự tôn dân tộc, ý thức độc lập tự cường, đồng thời giữ được bình yên của đất nước.

Với các nước phương Tây, các vương triều phong kiến Việt Nam thường không tin tưởng, luôn lo hậu họa xâm lăng, do đó, chính sách ngoại giao chủ yếu là “bế quan tỏa cảng”, không cho giao thương, nếu có thì cũng rất hạn chế.

Hội nhập của Việt Nam đầu thế kỷ XX với khuynh hướng dân chủ tư sản

Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đặt ách cai trị trên đất nước ta, triều đình nhà Nguyễn hèn nhát, từng bước quy thuận giặc Pháp, nhưng nhân dân Việt Nam không chịu khuất phục, các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp nổ ra khắp nơi. Tuy nhiên, các phong trào chống xâm lược từ khởi nghĩa nông dân đến cuộc vận động Cần Vương giúp vua Hàm Nghi cứu nước đều thất bại. Các cuộc đấu tranh nhằm phục hồi vương triều độc lập tự chủ theo ý thức hệ phong kiến đã không còn phù hợp. Vì vậy, thời kỳ này xuất hiện luồng tư tưởng mới của các sĩ phu yêu nước, với ý tưởng “xuất dương cầu viện” từ bên ngoài, như tư tưởng mưu cầu sự giúp đỡ từ người anh em “đồng văn đồng chủng” Nhật Bản của cụ Phan Bội Châu để đánh đuổi thực dân Pháp. Cụ Phan cho rằng: Trong các liệt cường, nếu không phải là các nước cùng nền văn hóa, cùng giống da vàng thì họ sẽ không giúp mình; còn Trung Quốc đã chịu nhường nước ta cho Pháp, thế lực suy yếu, tự cứu không xong; chỉ có Nhật Bản, vừa là nước da vàng, vừa là nước tân tiến, “vậy thì bây giờ muốn tìm ngoại viện, không gì bằng sang Nhật là hơn cả”1. Chỉ đến khi cầu viện không thành, cụ mới chủ trương đưa một số thanh niên Việt Nam sang Nhật Bản để học hỏi tri thức, đem tri thức tiên tiến về cứu đồng bào mình. Trái lại, cụ Phan Chu Trinh cho rằng: Việt Nam phải phát triển kinh tế và giáo dục để tự lực tự cường, hội nhập thế giới văn minh rồi mưu cầu độc lập chứ không cầu viện ngoại bang dùng bạo lực giành độc lập. Chỉ như vậy mới bảo đảm Việt Nam sẽ có một nền độc lập chân chính, lâu bền về chính trị lẫn kinh tế trong quan hệ với các nước lân bang cũng như nhân dân sẽ được hưởng độc lập và tự do cá nhân trong quan hệ với nhà nước. Với phương châm “tự lực khai hóa” và tư tưởng dân quyền, cụ cùng các cộng sự của mình đi khắp Trung Kỳ để vận động cuộc Duy Tân với khẩu hiệu: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Ông đã cố gắng thuyết phục chính phủ bảo hộ thay đổi chính sách, tiếp thu những đề nghị của cụ về cải cách hệ thống quan lại và mở rộng dân chủ, nhưng không thành công. Những ý tưởng canh tân đó đã bị đè bẹp bởi thế lực cầm quyền, thực dân; các phong trào bị đàn áp, các nhân sĩ bị bắt giữ, tù đày, các tổ chức bị tan rã. Đó có lẽ là một kết cục tất yếu của tư tưởng tiến bộ nảy sinh trong điều kiện thân phận tôi đòi, lệ thuộc. Dù kết quả không đạt được như mong muốn, nhưng tư tưởng tiến bộ của các sĩ phu yêu nước đã thổi một luồng gió mới vào hệ tư tưởng của người dân Việt Nam, mở ra một tư duy mới so với ý thức hệ phong kiến. Đó là hội nhập, quan hệ với nước ngoài để học tập và phát triển.

Hội nhập của nước Việt Nam độc lập và thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược

Thấu hiểu tình hình đất nước lúc bấy giờ, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành sau những năm tháng bôn ba khắp phương trời Tây tìm đường cứu nước, tìm hiểu phong trào công nhân quốc tế đã thấm nhuần tư tưởng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, trở thành người chiến sĩ cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam đặt nền móng xây dựng tình hữu nghị, gắn kết phong trào cách mạng Việt Nam, nhân dân Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế và các dân tộc trên thế giới. Mở đầu bằng việc tiếp cận, học tập và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đến khi làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị và hội nhập với thế giới để bảo vệ chủ quyền quốc gia, xây dựng đất nước. Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, đất nước ta giành được độc lập, nhưng hậu quả của chính sách cai trị kiểu thực dân khiến nền kinh tế vốn lạc hậu, công nghệ, kỹ thuật thấp kém vẫn trong tình trạng kiệt quệ. Nhận thức sâu sắc được điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương mở rộng quan hệ với các nước để học tập, tiếp thu kinh nghiệm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 1-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị: “Nhân danh Hội Văn hóa Việt Nam, tôi xin được bày tỏ nguyện vọng của Hội, được gửi một phái đoàn khoảng năm mươi thanh niên Việt Nam sang Mỹ với ý định một mặt thiết lập những mối quan hệ văn hóa thân thiết với thanh niên Mỹ, và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác”2.

Quan điểm tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế của Người còn được thể hiện rõ trong thư gửi Liên hợp quốc tháng 12-1946: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc… Trong cuộc đấu tranh vì những quyền thiêng liêng của mình, nhân dân Việt Nam có một niềm tin sâu sắc rằng họ cũng chiến đấu cho một sự nghiệp chung: Đó là sự khai thác tốt đẹp những nguồn lợi kinh tế và một tổ chức có hiệu quả cho an ninh ở Viễn Đông”3. Quan điểm nổi bật trong hội nhập và hợp tác quốc tế của Hồ Chí Minh là “thêm bạn bớt thù”, thể hiện tư tưởng hòa bình, hữu nghị, cùng có lợi. Trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc với tấm lòng của người dân yêu nước, căm thù bọn thực dân, Hồ Chí Minh đã nhìn nhận một cách khách quan, công tâm về chủ nghĩa tư bản và đánh giá cao những giá trị văn minh mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được trong quá trình phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rõ rằng, mọi thành tựu của khoa học kỹ thuật, mọi nguồn lực kinh tế, văn hóa đã được tạo ra đều là tài sản chung của văn minh nhân loại. Do đó, nước ta phải tích cực hội nhập thông qua các hình thức hợp tác quốc tế để khai thác tốt nhất mọi giá trị nguồn lực của nhân loại mới làm giàu và tăng cường được sức mạnh cho dân tộc, mới giữ vững được quyền độc lập, tự do và mưu cầu được hạnh phúc cho đồng bào.

 Ngay cả đối với cường quốc đã từng xâm lược nước ta, Bác cũng nêu rõ lập trường: Cố gắng lập lại mối quan hệ kinh tế và văn hóa trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên cùng có lợi, nhằm đoàn kết với nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Ý thức được rằng, từ địa vị một nước thuộc địa mới giành độc lập, lại nghèo, trong hội nhập, hợp tác với các nước, bao giờ cũng tiềm ẩn nhiều điều bất lợi. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi hợp tác, quan hệ quốc tế phải trên cơ sở thật thà và cùng có lợi, chống lại mọi thủ đoạn để dẫn tới sự can thiệp và thôn tính lẫn nhau. Người khẳng định: Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với công dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ muốn thật thà cộng tác với chúng ta thì sẽ được nhân dân ta hoan nghênh, coi họ như anh em bè bạn. Song nhân dân Việt Nam kiên quyết cự tuyệt những người Pháp quân phiệt.

Trong quan hệ hợp tác với các nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm mọi cách để ngăn chặn những tác động xấu, những hành động lợi dụng hợp tác vi phạm độc lập chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Người nói: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt mọi quan hệ thân thiện hợp tác với bất cứ một nước nào trên nguyên tắc: tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp nội trị của nhau, bình đẳng cùng có lợi, và chung sống hòa bình. Chúng tôi tin chắc rằng sự hợp tác đó sẽ có lợi chung cho cả đôi bên và có lợi cho công cuộc hòa bình toàn thế giới”4.

Tiếc rằng những mong muốn hợp tình hợp lý và tiến bộ đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những nỗ lực để mở cánh cửa đưa quốc gia non trẻ hội nhập cùng thế giới đã không thành - người Mỹ quay đi, người Nga im lặng, vì thực chất tại thời điểm đó họ chưa công nhận nền độc lập của nước ta và vô hình trung họ để ngỏ cơ hội cho thực dân Pháp quay trở lại tái chiếm Đông Dương. Nhưng với tinh thần nhân ái cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đường lối đoàn kết quốc tế của Đảng ta đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chính những nhân sĩ và các đoàn thể ở Pháp đã đấu tranh đòi chính phủ họ ngừng “cuộc chiến tranh bẩn thỉu” ở Đông Dương. Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân ta ở thập niên 60 - 70 của thế kỷ trước cũng vậy, chính các sinh viên, trí thức và nhiều tầng lớp nhân dân lao động khác trên đất Mỹ đã yêu cầu chính quyền Nixon rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, đưa lính Mỹ trở về nước. Những thành quả đó đánh dấu bước đầu thành công của Việt Nam trên con đường hội nhập.

Hội nhập của nước Việt Nam thống nhất và những thành công của sự nghiệp đổi mới

Quá trình hội nhập của nước ta thực tế chỉ bắt đầu từ khi Việt Nam trở thành thành viên của Liên hợp quốc năm 1977 và gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế (SEV) năm 1978. Đầu tiên là hội nhập trên lĩnh vực kinh tế, với thuật ngữ “nhất thể hóa kinh tế quốc tế”, nhưng do chỉ bó hẹp trong khuôn khổ khối các nước xã hội chủ nghĩa, nhằm củng cố, hoàn thiện sự hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa, nên các chuẩn mực xã hội chủ nghĩa và nguyên tắc hợp tác có nhiều khác biệt so với các cơ chế hợp tác quốc tế hiện nay. Khi đó, nước ta vừa mới thống nhất, nền kinh tế vốn nhỏ bé, lạc hậu lại còn bị kiệt quệ bởi chiến tranh tàn phá, vì vậy trong quan hệ với SEV, chúng ta chủ yếu là nhận sự ủng hộ và viện trợ về vật chất từ các nước xã hội chủ nghĩa.

Quá trình phát triển tư duy về hội nhập quốc tế của Đảng ta chính thức bắt đầu khi chúng ta tiến hành “đổi mới”, do Đại hội VI của Đảng (1986) khởi xướng. Với tinh thần đổi mới toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa - tư tưởng, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, Đại hội nhận định: “Một đặc điểm nổi bật của thời đại là cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa các lực lượng sản xuất”5. Tư duy về hội nhập ngày càng được phát triển và tiếp tục được hoàn thiện ở các kỳ đại hội tiếp theo.

Đại hội VII của Đảng (1991) tuyên bố đường lối đối ngoại rộng mở: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, đồng thời khẳng định “Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới là một thời cơ để phát triển”. Đại hội xác định nguyên tắc cơ bản trong hội nhập kinh tế quốc tế là: “Mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, bảo đảm ổn định, an ninh và phát triển”6. Như vậy, cho đến Đại hội VII, khái niệm hội nhập vẫn chưa xuất hiện, nhưng nhận thức của Đảng ta về xu thế “quốc tế hóa” trong cả hai kỳ đại hội là tiền đề quan trọng để phát triển tư duy về hội nhập quốc tế, mở ra bước đột phá trong quá trình hội nhập quốc tế.

Chủ trương hội nhập quốc tế, trước hết về kinh tế của Đảng tiếp tục được Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị bổ sung, làm rõ và cụ thể hơn. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 3 khoá VII ngày 29-6-1992 nhấn mạnh chủ trương mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, trong đó cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu vực, trước hết là ở châu Á - Thái Bình Dương. Trên thực tế, chúng ta đã đạt được kết quả như mục tiêu đặt ra: bình thường hóa quan hệ với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) vào tháng 10-1993.

Thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu được đề cập lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội VIII của Đảng (1996). Trong khi nêu rõ đường lối đối ngoại: “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, Đảng ta đã đưa ra chủ trương: “xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”7. Đại hội nhấn mạnh phải mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi. Tiếp đó, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 01/NQ-TƯ (ngày 18-11-1996) “Về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 5 năm 1996- 2000”, xác định nhiệm vụ, phương hướng, giải pháp, cơ chế, chính sách chủ yếu để phát triển kinh tế đối ngoại. Trong giai đoạn này, hội nhập quốc tế của nước ta đã chính thức bắt đầu với việc Việt Nam gia nhập ASEAN (1995), ký Hiệp định hợp tác khung Việt Nam - Ủy ban châu Âu dựa theo các chuẩn mực quốc tế (1995), gia nhập Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996, và Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 1998. Tiếp đó, ngày 22-11-1994, Bộ Chính trị ban hành văn bản số 1005-CV/VPTW giao cho Chính phủ soạn thảo và gửi đơn xin gia nhập WTO. Tuy nhiên quá trình đàm phán còn chậm và chưa được thúc đẩy mạnh mẽ. Điều này xuất phát từ thực tế là nước ta bị bao vây, cô lập, phải chủ động bình thường hóa quan hệ và gia nhập các tổ chức quốc tế. Cũng vì vậy, hội nhập quốc tế giai đoạn này được nhìn nhận thiên về quá trình đàm phán gia nhập các tổ chức quốc tế, chấp nhận luật chơi quốc tế.

Đến Đại hội lần thứ IX (2001), chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được nhấn mạnh là: ‘’Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi íchdân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”8. Quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện cụ thể nhất trong Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khóa IX (2001) về hội nhập kinh tế quốc tế. Giai đoạn này, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã bắt đầu đi vào chiều sâu với việc ký kết Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ năm 2001, đẩy nhanh đàm phán gia nhập WTO, thực hiện AFTA, v.v..

Đại hội X (2006) tái khẳng định chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và nêu định hướng “đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”9. Định hướng: hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội được đẩy mạnh, nhất là trong khuôn khổ các cơ chế hợp tác của ASEAN và do ASEAN làm chủ đạo đã mở ra một tư duy mới trên con đường hội nhập của Việt Nam. Tư duy đó chính thức được Đại hội XI (2011) khẳng định: việc chuyển từ “hội nhập kinh tế quốc tế” sang “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”10 tức là mở rộng phạm vi, lĩnh vực và tính chất của hội nhập. Thực chất giai đoạn này chúng ta có những thay đổi về chất trong hội nhập quốc tế với đỉnh cao là việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO (2007). Sự kiện này mở ra cho chúng ta một cơ hội mới, đánh dấu bước ngoặt của nước ta trên con đường hội nhập, đã bước từ thị trường khu vực ra thị trường quốc tế. Những năm sau đó, ta ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực như Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện với Nhật Bản (JVEPA) năm 2008; Hiệp định khung về Đối tác và hợp tác toàn diện với EU (PCA) năm 2010; FTA với Chilê; FTA của ASEAN với các đối tác; bắt đầu đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) năm 2010,... Cũng trong giai đoạn này, hợp tác quốc phòng, an ninh của nước ta được mở rộng với việc tham gia một số cơ chế đối thoại về quốc phòng như Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN (ADMM) và ADMM+. Các bộ, ngành chức năng cũng đã tích cực mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực chuyên ngành, tham gia ngày càng nhiều hơn vào các tổ chức quốc tế và khu vực. Tính đến ngày 31-12-2014, Việt Nam đã ký và tham gia 8 hiệp định thương mại tự do, trong đó có 6 hiệp định mang tính khu vực bao gồm: ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Hàn Quốc, ASEAN - Nhật Bản, ASEAN - Ấn Độ, ASEAN - Ôxtrâylia - Niu Dilân. Hai hiệp định còn lại là hiệp định song phương với Nhật Bản và Chilê. Các hiệp định tập trung chủ yếu ở Đông Á và có 6 hiệp định giữa ASEAN với đối tác bên ngoài; trong đó có 2 hiệp định cơ bản hoàn tất đang tiến hành rà soát pháp lý để ký kết chính thức là Hiệp định thương mại tự do với Liên minh Hải quan và với Hàn Quốc, còn Hiệp định với Liên minh châu Âu đã chính thức được ký kết ngày 29-5-201511. Từ năm 2015 trở đi, Việt Nam sẽ ngày càng hội nhập sâu với các nền kinh tế thế giới khi các FTA phát huy hiệu quả, đặc biệt khi các cam kết của 12 nước thành viên của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) được ký kết và thực hiện từ ngày 4-2-2016.

Như vậy, trong điều kiện đất nước chịu cảnh tôi đòi và lệ thuộc, sau những thử nghiệm về giao lưu, hợp tác với nước ngoài của các sĩ phu yêu nước những năm đầu thế kỷ XX không thành, khi nước ta giành được độc lập, đặc biệt là từ khi thống nhất đất nước, với tư duy mở cửa, hội nhập để phát triển kinh tế đất nước, Đảng ta đã nỗ lực không ngừng nhằm khai thông bế tắc, phá thế bao vây cấm vận, từng bước đưa nước ta hội nhập, bước đầu là thị trường nội khối các nước xã hội chủ nghĩa, sau đến thị trường cấp khu vực ASEAN, rồi đến liên khu vực như ASEM, APEC và rộng hơn nữa là thị trường toàn cầu như WTO, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong tiến trình hội nhập của kinh tế nước nhà. Theo đó, nhiều hiệp định hợp tác song phương, đa phương được ký kết trên tinh thần đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế đã đưa nước ta hội nhập ngày càng sâu với khu vực và thế giới. Có được kết quả như vậy là nhờ vào thành tựu của quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng ta “rộng mở”, “hợp tác”,  “muốn là bạn” sang “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy”. Tư duy đổi mới trong hoạt động đối ngoại của Đảng ta thể hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, kiên định về nguyên tắc và linh hoạt về sách lược, gắn mục tiêu cách mạng và định hướng phát triển đất nước vào những xu thế phát triển của thời đại, đồng thời từng bước khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, từ thân phận phụ thuộc “cầu viện” đến tự chủ “muốn là bạn”, rồi làm chủ “sẵn sàng là bạn”, ngày càng chủ động, tích cực hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới.

2. Những vấn đề đặt ra

Tuy nhiên trong tiến trình hội nhập quốc tế, những thỏa thuận trên con đường ngoại giao đó chỉ là bước đệm, chỉ tạo cơ hội cho các chủ thể, trong đó có doanh nghiệp nói riêng và cộng đồng kinh tế Việt Nam nói chung bứt phá, phát triển. Còn thực tế có tận dụng được cơ hội đó hay không lại tùy thuộc ở chính bản thân các doanh nghiệp cũng như các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Vấn đề đặt ra là cần phải nhận thức một cách tỉnh táo, không nên quá vui mừng trước những hào quang mà “chiếc bánh” hội nhập mang lại; cần phải chủ động, phát huy nội lực của các ngành, các cấp chính quyền cũng như các chủ thể khi tham gia hội nhập để tận dụng thời cơ, tạo ra cơ hội để phát huy lợi thế vốn có của đất nước, đồng thời chủ động đối mặt với mọi thách thức để từ đó tìm ra biện pháp khắc phục, thậm chí là biến thách thức thành thời cơ để phát triển.

Thứ nhất, thách thức dễ nhận thấy nhất là khi tham gia hội nhập, nước ta ở vị trí yếu thế: là một nước đang phát triển có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung còn nhiều hạn chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại, thị trường... chưa hoàn chỉnh. Cho nên, khi tham gia vào sân chơi chung, phải chấp nhận những luật lệ chung, nước ta sẽ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh cả ở trong nước và trên trường quốc tế, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn.

Thứ hai, cũng như các nước đang phát triển khác, khi tham gia hội nhập quốc tế,  nước ta phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ, đầu tư,... bất lợi chủ yếu do các nước phát triển áp đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự điều tiết vĩ mô bất hợp lý của các nước phát triển hàng đầu. Điển hình là ngành hàng dệt may của Việt Nam: khi ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, bên cạnh lợi thế về hàng rào thuế quan thì chúng ta lại gặp khó khăn, nan giải do Hiệp định quy định nguồn gốc nguyên vật liệu phải được cung cấp từ các nước nội khối. Hoa Kỳ không chấp nhận vật liệu từ nước thứ ba, trong khi nguyên liệu hàng dệt may của Việt Nam chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc.

Thứ ba, mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu thế toàn cầu hoá đặt ra một thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong tình hình như đã nêu, cơ cấu xã hội có thể biến động phức tạp và khó lường, hội nhập sẽ đem lại cho chúng ta nhiều cơ hội, nhưng cơ hội đến với mọi người là không như nhau, cơ hội sẽ chỉ đến với những ai thực sự năng động, biết tận dụng thời cơ để bứt phá và ngược lại. Điều này làm cho sự phân tầng, phân hoá trong xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối với bản thân sự phát triển của đất nước.

Thứ tư, hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề mới về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Về an ninh quốc gia, các nguy cơ đe dọa an ninh ngày càng phức tạp hơn, bên cạnh các hiểm họa mang tính truyền thống, đã xuất hiện các nguy cơ phi truyền thống như an ninh môi trường, dịch bệnh, khủng bố,... Về văn hoá, hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ bị văn hóa ngoại lai xâm nhập, nhất là văn hoá phương Tây, làm mài mòn thậm chí mất đi bản sắc văn hoá dân tộc.

Thứ năm, trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta cũng đang đối diện trước thách thức của một số nguy cơ đe dọa độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của nhà nước,... Hội nhập quốc tế đối với nước ta rõ ràng không thể tách rời cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên nhiều lĩnh vực.

Tóm lại, từ năm 1986, cùng với quá trình đổi mới và mở rộng hợp tác với bên ngoài, tư duy của Đảng ta về hội nhập quốc tế đã liên tục phát triển. Việc thực hiện chủ trương trên của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội: gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Song vẫn còn nhiều vấn đề cần có sự chung tay đồng sức đồng lòng của mọi ngành, mọi cấp chính quyền, mọi chủ thể khi tham gia vào “sân chơi chung” đầy hấp dẫn nhưng còn nhiều chông gai này.

 ThS. NCS. Phan Thị Huê

Đại học Sư phạm kỹ thuật Hưng Yên 

1. Chương Thâu: Phan Bội Châu – nhà yêu nước, nhà văn hóa lớn, Nxb. Nghệ An, Trung tâm ngoại ngữ Đông Tây, 2005, tr. 46.

2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 91; t. 4, tr. 523; t. 10, tr.12.

5, 6, 7, 8, 9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 27, 314, 342, 483, 651.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 235.

 


Bình luận