Việt Nam thực hiện các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ

Ngày đăng: 03/11/2015 - 15:11

Theo Báo cáo thống kê 2015 của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) công bố ngày 13-5-2015, mặc dù đạt được nhiều tiến bộ đáng khích lệ trong thực hiện Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về y tế tại 194 quốc gia trên thế giới, song vẫn còn khoảng cách lớn giữa các nước và trong từng nước, cũng như vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần giải quyết. Trong bối cảnh nhiều nước không thể hoàn thành các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ đúng thời hạn, Việt Nam nổi lên như một điểm sáng toàn cầu trong việc thực hiện các mục tiêu này.

5-chuong-trinh-pt-kt

Những thách thức trong tiến trình thực hiện các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ trên thế giới

Theo đánh giá của Liên hợp quốc, trên cấp độ toàn cầu một số mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) đã được hoàn thành. Đó là, những kết quả trong việc chống lại bệnh sốt rét và lao; tiếp cận với nguồn nước uống sạch hơn đã trở thành hiện thực với 2,3 tỷ người; bất bình đẳng giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong tỷ lệ đăng nhập tiểu học đang được loại bỏ; sự tham gia của phụ nữ vào hoạt động chính trị tiếp tục tăng; hỗ trợ phát triển đã phục hồi, hệ thống thương mại tạo thuận lợi cho các nước đang phát triển và gánh nặng vay nợ giữ ở mức thấp.

Tuy nhiên, vẫn còn sự khác biệt lớn giữa các nước (nhiều nước bị bỏ lại phía sau) và còn nhiều thách thức trong thực hiện các MDG, như tình trạng đói nghèo giảm nhưng vẫn cần tiếp tục có nhiều nỗ lực; tỷ lệ suy dinh dưỡng mãn tính ở trẻ em tuy đã giảm nhưng 1/4 số trẻ em vẫn đang bị ảnh hưởng; cần tiếp tục hành động mạnh mẽ hơn để giảm tỷ lệ tử vong ở bà mẹ và trẻ em; điều trị kháng vi-rút đang cứu sống nhiều người nhưng quy mô cần được tiếp tục mở rộng; hơn 1/4 dân số thế giới đã được tiếp cận với điều kiện vệ sinh được cải thiện kể từ năm 1990, tuy nhiên 1 tỷ người vẫn còn phải sống trong điều kiện mất vệ sinh…

Trả lời phóng vấn của TTXVN, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon cho biết, Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ và đã hoàn thành phần lớn các mục tiêu đó, chẳng hạn như giảm một nửa tỷ lệ nghèo đói; cải thiện tiếp cận của người dân với nước và vệ sinh; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và bình đẳng giới trong giáo dục. Hướng tới tương lai sau năm 2015, Việt Nam cần bảo đảm đạt được những tiến bộ tương tự ở tất cả các nhóm dân cư, kể cả các cộng đồng dân tộc thiểu số và người dân sống gần ngưỡng nghèo. Việt Nam cần bảo đảm sao cho không ai bị rơi lại vào tình trạng nghèo cùng cực do bị ảnh hưởng bởi những thảm họa thiên tai hoặc kinh tế.

 

 

Trong số 49 quốc gia kém phát triển nhất, chỉ có 6 quốc gia có tỷ lệ nghèo ở mức dưới 30% và trong tất cả các lĩnh vực, như suy dinh dưỡng, tỷ lệ tử vong ở trẻ em, sức khỏe bà mẹ, bệnh dịch... các nước này đều không thể hoàn thành các mục tiêu đúng hạn. Theo Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc, nguyên nhân là do những nước này đang gặp phải “các vấn đề về cấu trúc” và khó khăn, yếu kém này càng đặc biệt nghiêm trọng sau các cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế, lương thực và năng lượng mà thế giới trải qua, cộng thêm các hiệu ứng tiêu cực của tình trạng biến đổi khí hậu.

Một trong những thách thức lớn nhất đặt ra vào thời điểm hiện nay là vấn đề nhân đạo. Hiện còn khoảng 1,1 tỷ người sống dưới mức 1 USD/ngày, trong đó có 30% là trẻ em, ngay cả ở những quốc gia giàu, cứ 6 em thì có 1 em sống dưới mức nghèo khổ theo chuẩn đánh giá quốc gia. Trên thế giới, mỗi năm, có gần 11 triệu trẻ em dưới 5 tuổi tử vong. Hơn 500 triệu trong số 884 triệu trẻ em không được sử dụng nguồn nước sạch; 140 triệu trẻ em tại các nước đang phát triển chưa được tới trường; khoảng 15 triệu trẻ em chết vì HIV/AIDS. Ở hầu hết các nước khu vực cận sa mạc Xa-ha-ra, có rất ít phụ nữ, đặc biệt trẻ vị thành niên tiếp cận được những kiến thức về sức khỏe sinh sản. Ở hầu hết các nước chậm phát triển tại khu vực Mỹ La-tinh và Nam Á, tỷ lệ sinh ở trẻ vị thành niên vẫn rất cao. Những hiểm họa liên quan đến sức khỏe sinh sản đã dẫn đến tỷ lệ trẻ vị thành niên mang thai bị tử vong cao trên toàn cầu.

Tại Hội nghị Thượng đỉnh MDG diễn ra ở Niu Oóc (Mỹ) vừa qua, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-mun nhấn mạnh: “Các MDG vẫn có khả năng đạt được vào năm 2015, nếu các nhà lãnh đạo thế giới cung cấp thêm tiền và có ý chí chính trị mạnh hơn”. Ước tính thế giới cần tới 120 tỷ USD để thực hiện 8 MDG, tuy nhiên, cam kết của các nhà lãnh đạo châu Âu sẽ tài trợ 1,3 tỷ USD cho mục tiêu triệt để loại trừ tình trạng bần cùng và thiếu ăn vẫn chỉ dừng lại ở lời hứa.

Việt Nam - điểm sáng về thực hiện các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ

Trên chặng đường thực hiện các MDG, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả rất quan trọng, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, nhất là đối với các mục tiêu về giảm nghèo, bình đẳng giới và giáo dục. Kết quả thực hiện các mục tiêu khác cũng cho thấy xu hướng tích cực, nhiều chỉ tiêu về y tế đã tiệm cận được mục tiêu, các chỉ tiêu về môi trường được quan tâm nhiều hơn và được cụ thể hóa trong các chương trình, chính sách của Nhà nước, quan hệ đối tác vì phát triển có nhiều bước tiến bộ, khẳng định vị thế của quốc gia trên trường quốc tế.

Việt Nam đã về đích sớm đối với Mục tiêu 1 về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói từ năm 2002; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2010 và tiến tới những mục tiêu cao hơn về phổ cập giáo dục trung học cơ sở và trung học phổ thông. Việt Nam cũng đã cơ bản hoàn thành mục tiêu về bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ; thành công trong việc kiểm soát sốt rét, một số dịch bệnh nguy hiểm, bước đầu ngăn chặn được sự lây lan HIV và đang trước ngưỡng hoàn thành Mục tiêu giảm tử vong ở trẻ em. Mặc dù vẫn còn rất nhiều thách thức và trở ngại để có thể hoàn thành đúng hạn tất cả các MDG vào năm 2015, nhưng các thành tựu mà Việt Nam đã đạt được cho đến nay là rất quan trọng và rất đáng ghi nhận.

Thứ nhất, công cuộc giảm nghèo đã có những bước tiến vượt bậc với tốc độ giảm nghèo nhanh. Tỷ lệ nghèo đã giảm nhanh chóng từ 58,1% (năm 1993) xuống 9,6% (năm 2012) và còn 6% (năm 2014). Thành công trong giảm nghèo ở Việt Nam là kết quả của tăng trưởng kinh tế nhanh cùng với nỗ lực của toàn hệ thống chính trị luôn đặt giảm nghèo là một mục tiêu hàng đầu của quốc gia trong suốt hai thập niên qua.

Thứ hai, Việt Nam đã đạt được phổ cập giáo dục tiểu học (theo chuẩn quốc gia). Tỷ lệ nhập học đúng tuổi bậc tiểu học tăng đều qua các năm, đến năm 2012 đạt 97,7%. Cùng với việc đạt mục tiêu về phổ cập giáo dục tiểu học, Việt Nam đang nỗ lực hướng tới việc phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở đúng độ tuổi, chương trình phổ cập giáo dục tiếp tục được triển khai mạnh mẽ tại các địa phương.

Thứ ba, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ về bình đẳng giới, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, việc làm và các hoạt động chính trị. Việt Nam đã xóa bỏ bất bình đẳng giới trong việc tiếp cận giáo dục tiểu học và có tỷ lệ nữ giới tham gia lực lượng lao động và tỷ lệ đại diện nữ giới trong Quốc hội khá cao. Việt Nam có chỉ số về giới cao hơn so với các nước khác trên thế giới có cùng mức độ phát triển.

Thứ tư, tỷ suất tử vong ở trẻ dưới 1 tuổi đã giảm nhanh từ 44,4‰ (năm 1990) xuống còn 15‰ (năm 2012), và 15,2‰ (năm 2014).Tỷ suất tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi đã giảm hơn một nửa trong hai thập niên qua, từ 58‰ (năm 1990) xuống còn 23,2‰ (năm 2012) và 22,9‰ (năm 2014). Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu vào năm 2015 cần nhiều nỗ lực trong việc ngăn chặn tất cả các nguyên nhân gây tử vong chủ yếu ở trẻ dưới 5 tuổi.

Thứ năm, tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản đã liên tục giảm trong hai thập niên qua. Từ năm 1990 đến 2012, tỷ lệ này đã giảm hơn 2/3 từ 233/100.000 ca đẻ sống xuống còn 60/100.000 ca đẻ sống (năm 2014). Tuy nhiên tốc độ giảm này có xu hướng chậm lại từ năm 2006, do vậy việc đạt được mục tiêu 58,3/100.000 ca đẻ sống là một thách thức không nhỏ, đòi hỏi phải có nhiều cố gắng và nỗ lực mạnh mẽ.

Thứ sáu, Việt Nam đã khống chế được tỷ lệ lây nhiễm HIV ở dưới mức 0,3%, thấp hơn mục tiêu đặt ra trong Chiến lược quốc gia giai đoạn 2004 - 2010. Chương trình Quốc gia về phòng, chống bệnh sốt rét đã đạt được kết quả tích cực, đã giảm số ca mắc sốt rét và tử vong do sốt rét gây ra; đã hoàn thành chỉ tiêu liên quan đến kiểm soát bệnh lao; đạt nhiều tiến bộ trong kiểm soát các bệnh dịch nguy hiểm khác.

Thứ bảy, phát triển bền vững trở thành một mục tiêu căn bản trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Việt Nam đã đặt mục tiêu bảo vệ môi trường song hành với mục tiêu phát triển kinh tế từ hơn 20 năm nay, liên tục khẳng định mục tiêu phát triển kinh tế gắn liền với mục tiêu bảo vệ môi trường. Ngân sách nhà nước dành cho bảo vệ môi trường tăng lên đáng kể, không dưới 1% tổng chi ngân sách nhà nước.

Thứ tám, kể từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ thương mại với gần 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, có quan hệ đầu tư với hơn 84 nước và vùng lãnh thổ và ký kết trên 90 hiệp định thương mại song phương. Việt Nam là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế và trong khu vực, đã thu hút thành công một lượng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) lớn phục vụ cho phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng một vai trò là động lực quan trọng trong phát triển nền kinh tế, thu hút FDI luôn là một trong những trọng tâm hàng đầu.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu còn có những khó khăn, vướng mắc chung trong quá trình thực hiện các MDG, cụ thể như:

Một là, sự gia tăng bất bình đẳng và nghèo kinh niên đối với nhóm dễ bị tổn thương. Tốc độ giảm nghèo chậm và đói nghèo vẫn còn phổ biến ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa và vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Số hộ nghèo là dân tộc thiểu số chiếm tới 50% tổng số hộ nghèo của cả nước; thu nhập bình quân của các hộ người dân tộc thiểu số chỉ bằng 1/6 thu nhập bình quân của các hộ trong cả nước. Thành quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững, vẫn tồn tại tình trạng nhiều hộ gia đình nghèo dù đã thoát nghèo nhưng lại có nguy cơ cao rơi trở lại nhóm nghèo và tình trạng nhiều hộ không nghèo đã rơi vào nghèo đói. Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng cùng với dòng người nhập cư từ nông thôn ra thành thị đang là thách thức đối với nỗ lực tăng mức sống và phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực thành thị. Người nghèo đô thị đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, trong khi đó các chính sách hỗ trợ của Nhà nước chưa thực sự tác động đến nhóm người nghèo đô thị này.

Hai là, mặc dù Việt Nam đã đạt phổ cập giáo dục tiểu học và xóa bỏ bất bình đẳng giới ở cấp trung học cơ sở nhưng tỷ lệ nhập học của nữ giới ở giáo dục bậc cao tại vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa và của nhóm dân tộc thiểu số thường thấp hơn rất nhiều so với nam giới. Lao động nam tham gia nhiều hơn vào thị trường lao động và tiếp cận tốt hơn với công việc bền vững. Một bộ phận lớn nữ giới vẫn làm những công việc dễ bị tổn thương, đặc biệt trong khu vực phi chính thức. Bạo lực gia đình đang trở thành một vấn đề nổi cộm trong xã hội Việt Nam, tạo ra những trở ngại trong việc phát triển gia đình và xã hội. Tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn phổ biến, dẫn đến việc nam giới được tôn trọng hơn và có được các đặc quyền hơn nữ giới trong gia đình và xã hội. Sở thích sinh con trai vẫn còn tồn tại trong rất nhiều gia đình Việt Nam, đặc biệt ở khu vực nông thôn, vùng dân tộc thiểu số dẫn đến hệ quả là có sự chênh lệch lớn về tỷ số giới tính khi sinh và tình trạng này càng xấu đi trong những năm gần đây.

Ba là, vẫn còn tồn tại sự khác biệt về tình trạng sức khỏe của phụ nữ thuộc các nhóm khác nhau, nhất là đối với nhóm phụ nữ sinh sống ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa; nhóm có trình độ học vấn thấp, hộ nghèo và các nhóm dân tộc thiểu số. Nhu cầu về kế hoạch hóa gia đình chưa được đáp ứng đầy đủ, tỷ lệ phụ nữ có nhu cầu về kế hoạch hóa gia đình, nhưng chưa được đáp ứng vẫn ở mức tương đối cao. Hiện vẫn tồn tại những rào cản về xã hội và văn hóa đối với tiếp cận các biện pháp kế hoạch hóa gia đình ở Việt Nam. Các quan niệm sai lầm về sức khỏe sinh sản vẫn còn phổ biến trong xã hội. Bên cạnh đó, kế hoạch hóa gia đình vẫn được xem là nhiệm vụ của người phụ nữ, cùng với vai trò không tích cực của nam giới đã gây thêm rất nhiều trở ngại và gánh nặng cho phụ nữ. Thông tin về sức khỏe sinh sản vẫn còn thiếu, nhất là đối với nhóm thanh, thiếu niên.

Bốn là, những khó khăn trong việc bảo đảm bền vững về môi trường vẫn phổ biến, đòi hỏi phải có sự nỗ lực liên tục. Số lượng các vụ xâm phạm môi trường, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên ngày càng gia tăng và đang ngày càng trở nên nghiêm trọng. Hệ thống pháp luật về môi trường còn tồn tại nhiều lỗ hổng. Đầu tư cho môi trường còn ít và chưa tương xứng. Ngân sách nhà nước dành cho bảo vệ môi trường ở nước ta vẫn còn tương đối thấp so với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.

Năm là, những thách thức ngày càng lớn về rào cản thương mại, đặc biệt là rào cản thương mại phi thuế quan. Dòng vốn FDI sụt giảm dần; thu hút FDI vào những ngành trọng điểm trở nên khó khăn. Nợ công của Việt Nam có xu hướng tăng, tạo ra nhiều lo ngại và khiến nền kinh tế phải đối mặt với rủi ro cao. Nợ nước ngoài chiếm tỷ lệ lớn nhất trong nợ công khiến Việt Nam trở nên dễ bị tổn thương bởi các cú sốc kinh tế thế giới và rủi ro tỷ giá hối đoái.

Sáu là, việc xây dựng một khuôn khổ thể chế đối với các mục tiêu cam kết ở phạm vi quốc tế gặp nhiều khó khăn khi tồn tại sự khác biệt nhất định về tiêu chí, thước đo và tiêu chuẩn giữa quốc gia và quốc tế. Do vậy, đòi hỏi nhiều thời gian nghiên cứu các giải pháp nhằm hài hòa giữa các tiêu chí quốc tế với tiêu chí quốc gia, đồng thời phải có phương pháp để quy đổi thống nhất với các quy định của quốc tế.

Bảy là, một trong những thành quả đáng ghi nhận trong hơn một thập niên qua là Việt Nam đã trở thành một nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp vào năm 2010. Thành quả này phản ánh những nỗ lực của Việt Nam trong phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho người dân, nhưng song song với quá trình đó thì nguồn lực hỗ trợ có tính ưu đãi từ cộng đồng quốc tế - nguồn vốn ODA có xu hướng giảm dần để chuyển sang một trạng thái mới là hợp tác với các đối tác và nguồn vốn vay kém ưu đãi hơn. Việc này gây khá nhiều khó khăn trong việc huy động nguồn lực để thực hiện các mục tiêu thuộc lĩnh vực xã hội và giảm nghèo.

Một vấn đề quan trọng nữa là công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của toàn xã hội cần phải được chú trọng hơn; nâng cao năng lực theo dõi, giám sát, nhất là giám sát thường xuyên và giám sát có hệ thống.

Một số bài học kinh nghiệm

Một là, Việt Nam đã có cam kết và quyết tâm chính trị cao. Bằng việc thông qua Tuyên bố Thiên niên kỷ vào năm 2000, Việt Nam quyết tâm thực hiện các MDG, cam kết xây dựng một xã hội bền vững, trong đó tăng trưởng kinh tế luôn đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.

Hai là, có hệ thống quản lý điều hành tốt và các định chế nhà nước mạnh. Quản trị điều hành tốt chính là một trong những yếu tố quan trọng nhất giúp Việt Nam đạt được những thành tựu lớn trong thực hiện các MDG. Kinh nghiệm của Việt Nam cho thấy, một nền quản trị điều hành tốt phải bao gồm các yếu tố, như có hệ thống cơ chế chính sách rõ ràng, hiệu quả và hiệu lực cao; có bộ máy quản lý vững mạnh điều hành thực hiện các mục tiêu xã hội nói chung và các MDG nói riêng, được thiết lập từ cấp trung ương đến cấp địa phương; Có khả năng huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước và các bên liên quan khác; năng lực theo dõi và đánh giá được tăng cường để bảo đảm thành công thực hiện các MDG.

Ba là, có cách tiếp cận sáng tạo và hợp lý trong quá trình thực hiện các MDG. Nhiều cách tiếp cận đã trở thành các bài học kinh nghiệm sáng tạo của Việt Nam trên con đường thực hiện các MDG, trong đó quan trọng phải kể đến: Việc “quốc gia hóa” và lồng ghép các MDG đã giúp Việt Nam đến đích nhanh chóng và bền vững; Việt Nam đã thực hiện xóa đói, giảm nghèo dựa trên nền tảng tăng trưởng kinh tế cao, chú trọng phát triển các vùng nông thôn và khu vực nông nghiệp.

Bốn là, tinh thần làm chủ của chính quyền được nâng cao, đồng thời chú trọng thu hút sự tham gia tích cực của các bên liên quan. Để có thể phát huy tinh thần tích cực tham gia của người dân vào quá trình hoạch định và thực thi các MDG, Việt Nam đã thực hiện một số nguyên tắc, như bảo đảm cung cấp thông tin ở mức tốt nhất có thể; cung cấp đầy đủ nhất các nguồn lực cho các mục tiêu ưu tiên đã được xác định; có cơ chế tốt nhất cho các ý kiến phản hồi từ người dân và các bên liên quan.

Năm là, chú trọng sử dụng và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền vận động nhằm thực hiện thành công các MDG. Tuyên truyền vận động chính sách là việc cung cấp các thông tin chính xác, phù hợp và khách quan về mục tiêu, yêu cầu, nội dung và các kết quả của chính sách đó. Công tác tuyên truyền vận động luôn được Chính phủ và các bên liên quan coi trọng và được sử dụng như một công cụ, thậm chí là một “nguồn lực” cần được huy động tối đa để đạt được các MDG.

Kinh nghiệm của Việt Nam cho thấy, các MDG có thể đạt được ngay cả trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế mặc dù sự sẵn có của các nguồn lực luôn được coi là điều kiện không thể thiếu để bảo đảm thực hiện thành công các MDG. Ngoài ra, cần có sự cam kết mạnh mẽ và quyết tâm chính trị cao, có cách tiếp cận sáng tạo và phù hợp với điều kiện đặc thù của đất nước, có ý thức làm chủ được phát huy mạnh mẽ và sự tham gia tích cực của các bên liên quan. Bên cạnh đó, việc thực hiện thành công các MDG còn đòi hỏi phải nâng cao tính hiệu quả của bộ máy quản lý điều hành và của các định chế nhà nước khác, bảo đảm vai trò quan trọng của các cơ quan đầu mối, các bộ, ngành, địa phương có liên quan, phải tăng cường năng lực động viên, thúc đẩy và khuyến khích hành động của các tác nhân ở cả cấp Trung ương và địa phương. Một hệ thống chính sách có hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng đúng nhu cầu của người dân, cộng với sự hỗ trợ tích cực của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và các đối tác phát triển khác cũng là yếu tố góp phần không nhỏ vào sự thành công của việc hoàn thành các MDG./.

Nguyễn Thế Phương

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư

(Theo Tạp chí Cộng sản)

Bình luận