Tổ quốc Việt Nam trong thơ Chủ tịch Hồ Chí Minh

Ngày đăng: 17/01/2017 - 14:01

Văn chương không phải là sự nghiệp chính của người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh nhưng trong quá trình hoạt động cách mạng vì độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam, Người nhận thấy rõ sức mạnh của văn chương là một trong những vũ khí quan trọng và cần thiết để tuyên truyền, động viên quần chúng làm nên sự thành công của cách mạng.

Ba năm sau khi ra đi tìm đường cứu nước, lênh đênh trên biển cả, qua ba châu lục, đặt chân lên một số nước1 chứng kiến sự áp bức, bất công, tháng 8 năm 1914, tại căn nhà số 8, phố Xtêphen Tốttenham, Luân đôn, Thủ đô nước Anh, Bác viết và gửi bức thư đầu tiên đến cụ Phan Chu Trinh đang ở Pháp, trong thư có bài thơ Hy Mã đại bá nhân thấu2, ký tên Cuồng điệt Tất Thành (Hy Mã là hiệu của Phan Chu Trinh; Cuồng điệt là người cháu cuồng nhiệt, hăng say) để cụ Phan Chu Trinh hiểu rõ tấm lòng và ý chí quyết tâm của Bác đối với vận mệnh Tổ quốc:

Lợi chung dầu sẽ mua về được,

Kiếp mong chi nài sự có không.

Ba hột đạn thầm hai tấc lưỡi,

Sao cho ích giống mấy cam lòng.

(Bài thơ gửi Cụ Phan Chu Trinh)

Năm 1919, Bác thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam (Revendications du Peuple Annamite) gồm 8 điểm, yêu cầu Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Sau đó, chính bản yêu sách này đã được Bác dịch ra tiếng Việt theo thể văn vần để phổ biến rộng rãi với đồng bào trong nước dưới nhan đề Việt Nam yêu cầu ca. Kết thúc bài diễn ca này, Bác kêu gọi đồng bào:

Hai mươi triệu quốc hồn Nam Việt

Thế cuộc này phải biết mà lo.

(Việt Nam yêu cầu ca)

Nỗi “lo” này không ngoài nỗi lo nào khác là cứu nước, cứu dân. Câu cuối, Bác bày tỏ tận cùng tự đáy lòng mình: Anh em đã thấu lòng này cho chưa. Năm 1928, Bác viết Bài ca Trần Hưng Đạo với tấm lòng tôn kính, trân trọng, ôn lại sự kiện thiêng liêng:

Diên Hồng thề trước thánh minh,

Lòng dân đã quyết hy sinh rành rành.

Nếu ai muốn đến giành đất Việt

Đưa dân ta ra giết sạch trơn

Một người Việt hãy đang còn

Thì non sông Việt là non sông nhà.

Non sông đất nước, truyền thống lịch sử văn hóa Việt Nam mấy nghìn năm thấm sâu trong thơ Bác.

Dẫn ra một số bài thơ cụ thể trên để thấy rằng, những năm tháng Bác phải xa Tổ quốc, Bác luôn nghĩ suy về đất nước, hướng lòng mình về đất nước thân yêu. Trong cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên thổ lộ: “Có thể nói là ông Nguyễn suốt ngày nghĩ tới Tổ quốc và suốt đêm mơ tới Tổ quốc mình3. Tổ quốc Việt Nam luôn luôn trong trái tim Bác, thường trực trong Bác từng phút, từng giây. Những bài thơ Bác viết khi bị giam hãm trong tù ngục lại càng mang nặng nỗi nhớ nước da diết khôn nguôi:

Nghìn dặm bâng khuâng hồn nước cũ,

Muôn tơ vương vấn mộng sầu nay;

(Đêm thu)

Và:

Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng,

Tin tức bên nhà bữa bữa trông.

(Tức cảnh)

Thơ ca viết về Tổ quốc thời kỳ Bác ở nước ngoài vẫn là sự tiếp nối thơ ca viết về Tổ quốc trong dòng văn học yêu nước của các bậc chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phạm Tất Đắc… Ngoài việc sử dụng trực tiếp hai tiếng “Tổ quốc” thì trong thơ Bác, “Tổ quốc” còn được thể hiện gián tiếp qua những hình ảnh tượng trưng như: Hồn nước, Quốc hồn, Cố quốc, Sơn hà, Nước non, Non sông… Song, nội hàm của nó mang một nội dung mới. Tuy hiện tại đất nước đang chìm đắm trong cảnh nô lệ lầm than nhưng không bơ vơ, lạc lõng mãi nơi chân trời góc bể xa lắc xa lơ như Hồn cố quốc vẩn vơ vơ vẩn/Khôn tìm đường dò nhắn hỏi han/Bâng khuâng đỉnh giáp chân ngàn/Khói tuôn khí uất, sóng cuồn trận đau như trong thơ Phan Bội Châu, cũng không bi quan đến mức Đời người đến thế còn gì/Nước non đến thế còn gì nước non như cách nhìn nhận của Phạm Tất Đắc. Bác cũng nói đến Hồn nước, Quốc hồn… nhưng trong cảm nhận và tư duy tỉnh táo. Theo Bác, Hồn nước là ở chính trong từng người, là tình yêu Tổ quốc sâu nặng, là hành động dũng cảm cứu nước, là khối đời chung mà mọi người cùng lo:

Hai mươi triệu quốc hồn Nam Việt

Thế cuộc này phải biết mà lo.

(Việt Nam yêu cầu ca)

Tất cả cùng phải chung vai gánh vác, đồng tâm hiệp lực. Đó là cách nhìn, là quan điểm của người chiến sĩ cách mạng trong bước chuyển thời đại. Bác còn sử dụng nhiều lần một số hình tượng truyền thống như: con Rồng cháu Tiên, con cháu Lạc Hồng, Giang sơn Tiên rồng, nước non Hồng Lạc để nói về dân tộc, về đất nước, nhân dân với một niềm tôn kính, thiêng liêng, tự hào.

Trong thơ Bác, Nước bao giờ cũng gắn với Dân: Dân là con nước, nước là mẹ chung, cho nên trách nhiệm cao cả của mỗi người dân là phải giữ gìn, bảo vệ đất nước. Khi về nước trực tiếp lãnh đạo công cuộc giải phóng dân tộc, thơ Bác tập trung cho chủ đề tập hợp lực lượng, tuyên truyền vận động, động viên mọi tầng lớp nhân dân chuẩn bị khẩn trương cho cuộc cách mạng đánh đổ thực dân phong kiến, cứu nước, cứu dân:

Kêu gọi dân ta trẻ lẫn già

Đoàn kết vững bền như khối sắt

Để cùng nhau cứu nướcNamta!

(Việt Nam độc lập)

Việc chi lợi nước thì làm,

Cứu dân cứu quốc há cam kém người!

(Ca binh lính, Việc chi ích nước thì làm)

Mấy chữ cứu nước, cứu dân trong thơ Bác thật khẩn thiết. Đặc biệt trong thời kỳ này Bác viết hai bài diễn ca Địa dư nước ta và Lịch sử nước ta, để mọi người dân Việt Nam tỏ tường về đất nước, lịch sử Việt Nam. Có thể nói, Địa dư nước ta là tấm bản đồ Việt Nam bằng thơ đầy đủ các tỉnh, thành, vùng miền từ Lạng Sơn đến Cà Mau với những đặc trưng địa lý và văn hóa tiêu biểu. Mục đích Bác viết Địa dư nước ta được thể hiện rõ ở hai câu mở đầu:

Dân ta phải biết nước ta,

Một là yêu nước hai là trí tri.

Và, cũng có thể nói, Lịch sử nước ta là cuốn lịch sử bằng thơ về nước Việt Nam từ năm 2979 trước Công nguyên, tức là từ: Hồng Bàng là tổ nước ta/ Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang đến đầu năm 1942, sau các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và Đô Lương. Lịch sử nước ta đã ghi lại và thể hiện sinh động, đầy đủ các mốc son lịch sử, các vị anh hùng cứu nước và vai trò của Dân ta giữ vững non sông nước nhà. Lịch sử nước ta cũng được mở đầu:

Dân ta phải biết sử ta

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.

Và kết thúc là một tương lai:

Mai sau sự nghiệp hoàn thành

Rõ tên nước Việt, rạng danh Lạc Hồng.

Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ anh dũng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cứu nước cũng như sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc Việt Nam hiện lên trong thơ Bác càng cụ thể và nhiều chiều, khi là lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc cùng với những âm thanh vang dậy giục giã mọi người cùng tham gia vào cuộc chiến đấu giải phóng và bảo vệ đất nước:

Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió,

Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông.

(Chúc năm mới)

Khi là quang cảnh tươi đẹp của chiến khu, đầu nguồn cách mạng:

Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay

(Cảnh rừng Việt Bắc)

Bao la nhuốm một mầu hồng đẹp tươi

(Đi thuyền trên sông Đáy)

Khi là cuộc cách mạng ruộng đất cho người cày có ruộng:

Cải cách ruộng đất là công việc rất to,

Dần dần làm cho người cày có ruộng, khỏi lo nghèo nàn.

(Thơ Chúc Tết - 1954)

Khi là phong trào thi đua yêu nước:

Miền Bắc thi đua xây dựng,

Miền Nam giữ vững thành đồng.

(Thơ Chúc mừng năm mới - 1956)

Khi là quyết tâm của toàn quân, toàn dân:

Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào.

(Thơ Chúc mừng năm mới - 1969)

Khi là niềm tự hào về non sông, về con đường đi lên của Tổ quốc:

Non sông gấm vóc có ngày nay

(Thăm lại hang Pắc Bó)

Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh.

(Thơ mừng năm mới 1961)

Có hai biểu tượng khắc sâu trong tâm trí người đọc về Tổ quốc trong thời kỳ tiến hành hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc trong thơ Bác là hình ảnh lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc và tư tưởng độc lập, tự do. Lá cờ nền đỏ với ngôi sao vàng chính giữa xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940 đã đi vào thơ Bác, phấp phới trong bài Chúc Tết Nhâm Ngọ - 1942: Cờ đỏ sao vàng bay phấp phới; tung bay trong bài thơ Chúc Tết Đinh Hợi - 1947: Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió. Rồi cả nước là một rừng cờ, rực rỡ màu cách mạng đem đến niềm vui, niềm tin, niềm tự hào cho mọi người, cho mọi nhà: Đưa tin thắng trận cờ hồng tung bay (Thơ Trung thu gửi các cháu nhi đồng - 1953); Đưa tin thắng lợi cờ hồng bay cao (Điện Chúc tết các đồng chí cán bộ đang công tác tại Pari - 1969). Lá cờ Tổ quốc đã trở thành biểu tượng của độc lập, tự do, hòa bình, hạnh phúc:

Nước nhà ta, ta làm người chủ,

Vận mệnh ta, ta giữ trong tay,

Nước non vẫn nước non này,

Treo cờ độc lập, nền xây hòa bình.

(“Chinh phụ ngâm” mới)

Hay như:

Lửa cách mạng sáng choang bờ cõi,

Chiếu lá cờ độc lập, tự do!

(Nhóm lửa)

Một Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do hiển hiện ngày càng rõ ràng và đậm nét trong thơ Bác. Mỗi khi nói về Tổ quốc, nói về con người, bao giờ Bác cũng nói đến độc lập, tự do. Độc lập, tự do là lý tưởng, là khát vọng lớn lao nhất của Bác và của toàn dân tộc. Bác đã từng nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn nói, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”4; “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”5. Sau này, tư tưởng ấy được Bác gói gọn trong một câu nói giản dị: Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Câu nói đó đã trở thành chân lý phổ biến, một tư tưởng định hướng lớn, một mục tiêu lớn, cổ vũ cho hành động cách mạng của nhân dân ta nói riêng và cho cả những dân tộc đang đấu tranh cho độc lập, tự do trên toàn thế giới. Những bài thơ Bác viết là biểu hiện sinh động của tư tưởng độc lập, tự do, là tiếng nói đấu tranh cho độc lập, tự do. Khi đất nước đang trong thời kỳ chiến tranh, Bác viết thơ để tuyên truyền, vận động đoàn kết toàn dân tộc thành một khối thống nhất để cùng hành động:

Việt Nam độc lập thổi kèn loa,

Kêu gọi dân ta trẻ lẫn già;

Đoàn kết vững bền như khối sắt,

Để cùng nhau cứu nước Nam ta.

Khi đất nước đã giành được độc lập, thơ là lời mừng:

Độc lập đầy vơi ba chén rượu,

Tự do vàng đỏ một rừng hoa.

(Tặng báo Quốc gia)

Khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước bước vào giai đoạn quyết định, quân dân ta đang thắng lớn, thì thơ Người lại đanh thép như lời hịch thúc giục mọi người xông lên, xốc tới:

Vì độc lập, vì tự do,

Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.

Tiến lên! chiến sĩ, đồng bào!

Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn!

(Thư Chúc mừng năm mới - 1969)

Và đúng như ước nguyện của Người, chẳng bao lâu sau đó, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước toàn thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, giang san quy về một mối, độc lập, tự do từ nay vĩnh viễn nắm chắc trong tay. Quân và dân ta đồng hành quyết tâm thực hiện thành công lời Bác dạy, xây dựng đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Đọc những vần thơ Bác viết về Tổ quốc, mỗi chúng ta càng được thấm nhuần sâu sắc hơn về tình yêu Tổ quốc.

Trong lịch sử thi nhân Việt Nam, Bác Hồ là người làm nhiều thơ về Tổ quốc Việt Nam nhất, thể hiện rõ nét nhất chiều dài, bề dày và những bước chuyển cách mạng của lịch sử dân tộc, của đất nước Việt Nam với hệ thống ngôn từ giản dị nhất, súc tích và dễ hiểu nhất. Tổ quốc Việt Nam trong thơ Bác thể hiện tâm thức, cảm nhận của một tấm lòng, một tâm hồn sáng trong, da diết, nhạy cảm và tin yêu. Đó là Tổ quốc trong đau thương, nô lệ, Tổ quốc vùng lên kiêu hãnh với những kỳ tích, những mốc son lịch sử chói lọi - một Tổ quốc trong yêu thương, trong đấu tranh quyết liệt, trong niềm tự hào xây đắp và bảo vệ.

Trọn cuộc đời, Bác dành cả trái tim và khối óc, hiến dâng cho Tổ quốc, trước sau như một, một lòng, một ý chí sắt đá vì Tổ quốc, vì nhân dân; kiên định, nhất quán trong một con người. Và tình yêu nước nồng nàn ấy, lòng yêu thương đồng bào, đồng chí bao la ấy chính là nguồn cảm hứng để tạo ra những tác phẩm thi ca về Tổ quốc, dân tộc, nhân dân giàu tính cách mạng nhưng cũng đậm đà chất nhân văn, nghệ thuật của Người.

LÊ XUÂN ĐỨC

1. Ngày 5-6-1911, Bác rời cảng nhà Rồng. Tháng 7 năm 1911, Bác tới cảng Mácxây, Lơ Havơgiơ nước Pháp. Cuối năm 1912, Bác làm thuê cho một chiếc tàu chở hàng vòng quanh châu Phi. Bác đã đến các nước: Angiêri, Tuynidi, Xênêgan,… Cuối năm 1913, Bác sang Mỹ, dừng chân ở New York một thời gian, sau đó trở về Pháp. Đầu năm 1914, từ Pháp, Bác sang Anh.

2. Cho đến nay nếu công việc sưu tầm thơ Bác chưa có thêm tư liệu thì bài thơ Hy Mã đại bá nhân thấu (để Phan Chu Trinh hiểu rõ) được coi là bài thơ của Bác.

3, 4. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 45, 44.

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 627.

Bình luận