Điểm sáng kinh tế Việt Nam năm 2016 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017
Năm 2016, Việt Nam chịu nhiều tác động tiêu cực từ hạn hán, thiên tai và kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm hơn so với dự báo; tăng trưởng thương mại đạt mức thấp; giá dầu thô thất thường; nhu cầu và giá nông sản giảm mạnh… Tuy nhiên về tổng thể, kinh tế cả nước vẫn tăng trưởng tích cực.
Điểm sáng kinh tế năm 2016
Các cân đối vĩ mô được bảo đảm, tăng trưởng GDP quý sau cao hơn quý trước
Năm 2016, Việt Nam tiếp tục bảo đảm các cân đối vĩ mô, lạm phát thấp, dự trữ ngoại tệ cao nhất và xuất siêu trở lại (đạt 2,84 tỷ USD trong 11 tháng qua). Tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả năm ước khoảng 6,3% - 6,5%, thấp hơn kế hoạch, nhưng vẫn gấp đôi mức trung bình toàn thế giới và thuộc nhóm tăng cao hàng đầu khu vực và đặc biệt vẫn duy trì động thái quý sau cao hơn quý trước liên tục nhiều năm qua.
Động lực tăng trưởng chung của nền kinh tế được hội tụ từ đà tăng trưởng tốt của công nghiệp chế biến, chế tạo và dịch vụ. Tổng cầu tiêu dùng tăng khá, với doanh số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng đạt 85,8% GDP so với 77,3% GDP của năm 2015. Tổng nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế tăng 15,1% so với năm 2015, tương đương 170% GDP. Thị trường chứng khoán tăng gần 20% và mức vốn hóa thị trường đạt 38% GDP (so với 32,4% năm 2015). Đầu tư gián tiếp tăng trên 20%. Lòng tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước tăng mạnh nhờ môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện...
Năm 2016 là năm lần đầu tiên Việt Nam áp dụng chế độ tỷ giá trung tâm, bộ chỉ số doanh nghiệp phát triển bền vững, chỉ tiêu giảm nghèo đa chiều bền vững, cơ chế mua ngân hàng thương mại với giá 0 đồng và đưa lãi suất tiền gửi USD bằng 0%, cũng như là năm tiệm cận gần nhất với trần nợ công và buộc phải nới trần nợ Chính phủ từ 50% lên mức 55% GDP…
Cân đối thu - chi ngân sách nhà nước vẫn được duy trì theo kế hoạch dù Việt Nam đã chạm trần nợ công và ngày càng kiểm soát chặt chẽ hơn bội chi ngân sách nhà nước.
Nông nghiệp đang phục hồi khá tích cực
Dù bị ảnh hưởng khá nặng nề do ô nhiễm môi trường biển, cũng như mưa, bão, ngập úng, khô, hạn và nhiễm mặn, làm giảm sút cả sản lượng đánh bắt, khai thác thủy sản, cũng như năng suất so với năm trước, nhưng sản xuất nông nghiệp đang có xu hướng hồi phục: Xuất khẩu rau quả tăng mạnh nhờ ứng dụng công nghệ cao và lần đầu vượt xuất khẩu gạo, góp phần đưa tổng kim ngạch xuất siêu nông nghiệp lên hơn 7 tỷ USD. Nhiều kết quả nghiên cứu khoa học, giống mới, quy trình công nghệ, tiến bộ kỹ thuật mới được chuyển giao, ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp đã góp phần giảm chi phí đầu tư, tăng lợi nhuận và mang lại hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất nông nghiệp. Hiện, cả nước đã có trên 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô, 60% diện tích mía, 100% diện tích điều trồng mới được sử dụng giống mới,… đưa Việt Nam thuộc vào nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về tôm, cá tra, cà phê, hạt điều, hạt tiêu và gạo.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm nhìn chung phát triển ổn định, đến cuối năm 2016, cả nước không còn dịch cúm gia cầm.
Công nghiệp và dịch vụ tăng trưởng khá và có cải thiện về cơ cấu
Tính chung 11 tháng năm 2016, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 7,3% (cùng kỳ năm ngoái tăng 9,9%); trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 3.201,5 nghìn tỷ đồng, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu du lịch lữ hành tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước. Tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước đạt 159,5 tỷ USD, tăng 7,5% và kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 156,6 tỷ USD, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước.
Thị trường tài chính ổn định, lạm phát thấp
CPI tháng 11-2016 tăng 0,48% so với tháng trước, tăng 4,5% so với tháng 12-2015 và tăng 4,52% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 11 tháng năm 2016 tăng 2,47% so với bình quân cùng kỳ năm 2015. Lạm phát cơ bản tháng 11-2016 tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 1,87% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 11 tháng năm 2016 tăng 1,82% so với bình quân cùng kỳ năm 2015. Nhìn chung, lạm phát ở mức thấp, dù có cao hơn năm trước do hội tụ các yếu tố tăng về giá xăng dầu, dịch vụ y tế (nhóm giá dịch vụ y tế, giáo dục đóng góp khoảng 3% trong tổng số 4% lạm phát 10 tháng năm 2016).
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và gia tăng đầu tư xã hội
Năm 2016, ngành thuế đã chuẩn hóa và cắt giảm từ 385 thủ tục xuống còn 300 thủ tục hành chính thuế; sửa đổi, bổ sung 51/70 quy trình, quy chế quản lý thuế; mở rộng khai thuế điện tử cho doanh nghiệp và cá nhân; ký thỏa thuận với 45 ngân hàng thương mại để triển khai nộp thuế điện tử; tiếp tục rút ngắn thời gian nộp thuế từ 537 giờ xuống còn 117 giờ cuối năm 2015 và chỉ còn 110 giờ cuối năm 2016. Trên 71% người nộp thuế được hỏi hài lòng với kết quả cải cách của cơ quan thuế trong những năm qua.
Báo cáo môi trường kinh doanh năm 2016 do Ngân hàng Thế giới (WB) thực hiện cho thấy, xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam 2016 tăng tới 9 bậc, xếp thứ 82/189 quốc gia được xếp hạng. Trong đó, chỉ số bảo vệ nhà đầu tư thiểu số tăng tới 31 bậc; chỉ số nộp thuế của Việt Nam đã tăng 5 bậc, từ vị trí 173/189 lên vị trí 168/189.
Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) vừa công bố báo cáo nhan đề “Môi trường thương mại toàn cầu năm 2016”, được thực hiện 2 năm một lần. Theo đó, môi trường thương mại của Việt Nam tăng 14 bậc trong bảng xếp hạng “Thúc đẩy thương mại xuyên biên giới năm 2016”, lên vị trí 73/136 nền kinh tế được đánh giá, với nhiều cải thiện trong quản lý biên giới, hải quan và cải thiện sự tiếp cận của hàng hóa nước ngoài đối với thị trường nội địa, thuế quan giảm và cải thiện về kết cấu hạ tầng vận tải, bảo vệ sở hữu trí tuệ và nâng cao hiệu quả của các cơ quan nhà nước về thực hiện kiểm dịch, an toàn thực phẩm...
Môi trường đầu tư được cải thiện đã khai thông rộng hơn các dòng vốn đầu tư xã hội, thể hiện ở sự gia tăng dư nợ tín dụng ngân hàng, gia tăng vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới và quay lại hoạt động, từ dòng vốn bổ sung đầu tư mở rộng và tăng vốn thực hiện cả vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và giải ngân vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Trong 11 tháng năm 2016, cả nước có 101.683 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng vốn đăng ký là 797,7 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% về số doanh nghiệp và tăng 48,1% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015. Đặc biệt, có tới 1.463,9 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm. Số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 7,8 tỷ đồng, tăng 26,5%. Ngoài ra, có 24.560 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 31,7% so với cùng kỳ năm trước (11 tháng năm 2015 tăng 31,2% so với cùng kỳ năm 2014), nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 11 tháng năm 2016 lên 126,2 nghìn doanh nghiệp, tức bằng hơn 20% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước. Hơn nữa, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực. Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động là 54.046 doanh nghiệp, giảm 13,8%, dù số doanh nghiệp giải thể là 10.468 doanh nghiệp, tăng 23,6% so với cùng kỳ năm trước.
Tính đến ngày 20-11-2016, cả nước thu hút 2.240 dự án FDI mới (tăng 20,8%), tổng vốn đăng ký 13.028,2 triệu USD (giảm 3,9%); có 1.075 dự án tăng thêm vốn đầu tư 5.074,8 triệu USD. Vốn FDI thực hiện ước đạt 14,3 tỷ USD, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm 2015.
Bảng xếp hạng vinh danh 100 doanh nghiệp phát triển bền vững Việt Nam năm 2016 lần đầu công bố cho thấy, điều đáng mừng là doanh nghiệp ngày càng quan tâm tới vấn đề phát triển bền vững.
Kế hoạch và triển vọng phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2017
Năm 2017, tình hình kinh tế thế giới có triển vọng sáng sủa hơn năm 2016. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo tháng 10-2016, GDP toàn thế giới chỉ tăng trưởng 3,1% năm trong năm 2016 và sang 2017, con số này là 3,4%. Đây là mức giữ nguyên so với dự báo tháng 7-2016, nhưng vẫn thấp hơn 0,1% so dự báo hồi tháng 4-2016. Theo WB, tăng trưởng thế giới tiếp tục duy trì ở mức 2,9% trong năm 2016 và 3,1% trong năm 2017. Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) dự báo GDP toàn cầu của năm 2016 sẽ chỉ dừng ở 2,9% và sẽ tăng lên 3,3% năm 2017 và 3,6% năm 2018.
Bước sang năm 2017, giá dầu có thể tăng do nhu cầu dầu thô của thế giới dự báo tăng nhẹ và sự đồng thuận đậm nét hơn (dù công khai hay ngấm ngầm) của các nước xuất khẩu dầu mỏ về kiểm soát giá dầu,… Song, các rủi ro làm giảm nhu cầu xăng dầu có thể đến từ các nguồn nhiên liệu thay thế, đặc biệt là sự xuất hiện của các phương tiện đi lại tiết kiệm năng lượng…
Ngày 07-11-2016, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017, với mục tiêu GDP tăng khoảng 6,7%, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 6% - 7%. Số giường bệnh trên một vạn dân đạt 25,5 giường (không tính giường trạm y tế xã). Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 82,2%.
Cần nhấn mạnh rằng, năm 2017, chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát vẫn được đưa ra bằng với mục tiêu 2016, trong khi chỉ tiêu về xuất khẩu đã được điều chỉnh thấp hơn... Những chỉ tiêu này được đưa ra căn cứ vào hệ chỉ tiêu chung Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 đã được Quốc hội thông qua ngày 12-4-2016. Theo đó, trong 5 năm tới, bình quân tốc độ GDP tăng 6,5% - 7%/năm; GDP năm 2020 đạt 3.200 - 3.500 USD/người; bội chi ngân sách nhà nước năm 2020 dưới 4% GDP; lạm phát dưới 4% các năm đầu kỳ kế hoạch và 3% vào năm 2020, công nghiệp và dịch vụ chiếm 85% GDP năm 2020. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm khoảng 32% - 34% GDP. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30% - 35%. Năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm…
Theo tinh thần Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Việt Nam sẽ đẩy mạnh cơ cấu lại đầu tư công, ngân sách nhà nước và nợ công; triển khai quyết liệt các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Giảm dần tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước, đến năm 2020 xuống dưới 4% GDP, đến năm 2030 xuống khoảng 3% GDP. Quy mô nợ công hằng năm giai đoạn 2016 - 2020 không quá 65% GDP, nợ chính phủ không quá 55% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP. Đến năm 2030, nợ công không quá 60% GDP, nợ chính phủ không quá 50% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 45% GDP. Bên cạnh đó, sẽ có sự phát triển thị trường tài chính cân bằng hơn giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn; giữa thị trường vốn cổ phiếu và trái phiếu; giữa trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp; giữa dịch vụ tín dụng và các dịch vụ ngân hàng phi tín dụng; thị trường vốn đầu tư mạo hiểm và tín dụng tiêu dùng đồng thời, đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty nhà nước…
Năm 2017, Việt Nam sẽ tiếp tục đối mặt những khó khăn, thách thức, từ môi trường kinh tế thế giới tiềm ẩn nhiều bất ổn truyền thống và phi truyền thống; thiên tai, biến đổi khí hậu, xung đột vũ trang và nợ công tăng nhanh; nông nghiệp tăng trưởng chậm, nền kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào khu vực FDI, tiến trình cơ cấu lại tổng thể còn chậm; hệ thống tài chính vẫn phụ thuộc nhiều vào khu vực ngân hàng, vấn đề nợ xấu tiếp tục đặt ra nhiều thách thức cho phát triển kinh tế bền vững. Đáng quan ngại là nhập siêu từ Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Hàn Quốc và Nhật Bản có xu hướng tiếp diễn. Lạm phát sẽ gia tăng áp lực do tăng dư nợ tín dụng và quy mô nợ, tăng lương, tăng giá và phí các dịch vụ công, cũng như do tăng giá xăng dầu nhập khẩu. Giá vàng và tỷ giá ngoại tệ trong nước tiếp tục tăng áp lực, biến động theo thị trường thế giới. Áp lực thất nghiệp và giảm nghèo đói vẫn là thách thức không nhỏ cho các vùng, địa phương còn nhiều khó khăn và đang bị ô nhiễm môi trường nặng nề…
Nhưng về tổng thể, tăng trưởng kinh tế năm 2017 sẽ được cải thiện khá, có khả năng đạt mức 6,7%, nhờ cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, tạo xung lực mới cho khu vực tư nhân trở thành động lực chính của năm 2017, cũng như nhờ giá năng lượng và nông sản thế giới dự báo phục hồi. Việt Nam tiếp tục bảo đảm thanh toán đầy đủ, kịp thời các khoản nợ đến hạn theo cam kết; đồng thời, cơ chế vay quản lý nợ công sẽ đậm tính thị trường hơn, nhất là cơ chế cho vay lại Ủy ban nhân dân cấp tỉnh từ nguồn vốn vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vay ưu đãi của các nhà tài trợ. Hoa Kỳ sẽ vẫn là thị trường xuất khẩu và xuất siêu lớn nhất, còn Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu và nhập siêu lớn nhất của Việt Nam. Môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện, tạo động lực mở rộng thêm các hoạt động đầu tư xã hội gia tăng, được thể hiện ở sự gia tăng dư nợ tín dụng ngân hàng, gia tăng vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới và quay lại hoạt động, vốn bổ sung đầu tư mở rộng và vốn thực hiện của FDI và vốn giải ngân từ ngân sách nhà nước.
Nhìn chung, dù là khá cao trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động tiêu cực làm giảm sút động lực tăng trưởng chung, tuy nhiên, những chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017 được đặt ra không phải là ảo tưởng, mà được dựa trên nền tảng động lực cộng hưởng và hội tụ từ các xung lực tích cực mà Việt Nam đã và đang đạt được trong năm 2016, nổi bật là: Sự cải thiện môi trường đầu tư; tăng áp dụng khoa học - công nghệ và tiếp tục tham gia hội nhập quốc tế sâu rộng, đầy đủ hơn; tốc độ tăng trưởng kinh tế quý sau cao hơn quý trước. Các dòng vốn nước ngoài tiếp tục tăng mạnh, cơ cấu phù hợp với mục tiêu thu hút. Xuất siêu tăng khá và số lượng doanh nghiệp thành lập mới, quay lại hoạt động gia tăng. Lạm phát được kiểm soát dưới mức kế hoạch. Mặt bằng lãi suất, tỷ giá cơ bản ổn định. Thu hút khách du lịch quốc tế đạt khá. Nông nghiệp từng bước phục hồi. Niềm tin thị trường, xã hội của người dân và doanh nghiệp được duy trì; sự phát triển tích cực của ngành chế biến, chế tạo (có quy mô và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn ngành công nghiệp; sự thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; thị trường tài chính mở rộng hơn). Lãi suất huy động tương đối ổn định; lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn giảm và cơ cấu tín dụng đang tiếp tục theo hướng tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm hỗ trợ có hiệu quả hơn cho tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, động lực tăng trưởng còn được tiếp sức từ duy trì tổng cầu tiêu dùng trong nước; sự thành công của chế độ tỷ giá trung tâm linh hoạt hơn.
Tổng sản phẩm trong nước tăng khá cao, trong khi lạm phát thấp và tỷ lệ đầu tư xã hội/GDP thấp cho thấy động lực của tăng trưởng không chỉ là vốn đầu tư và dường như tăng trưởng kinh tế cao buộc phải trả giá bằng lạm phát cao đã không còn đúng, cũng không còn là “vòng kim cô” luẩn quẩn đối với Việt Nam nữa.
Động lực tăng trưởng năm 2017 còn được gia tăng từ lòng tin thị trường, củng cố vị thế quốc tế và kỳ vọng những cơ hội mới tới từ các kết quả đàm phán, ký kết và triển khai các cam kết và chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam; từ những chuyển động tích cực về cơ cấu lại kinh tế, nhất là trong mua bán, sáp nhập các ngân hàng và chuyển nhượng dự án bất động sản; thu hồi các dự án chậm triển khai, dùng sai mục đích sử dụng đất; cổ phần hóa đơn vị sự nghiệp công và tăng cường sử dụng giống mới, ứng dụng công nghệ bảo quản, chế biến nông sản hiện đại; mở rộng sự tham gia của doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp theo mô hình liên kết chuỗi và quy mô công nghiệp.
Động lực tăng trưởng sẽ được tiếp sức bởi sự chuyển động của cả bộ máy quản lý và hệ thống chính trị, tạo mọi điều kiện, tháo gỡ mọi rào cản cho sản xuất, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp, thúc đẩy khởi nghiệp; phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, chế biến, chế tạo, gắn với các lợi thế về nguồn nguyên liệu nông, lâm nghiệp, thủy sản; thực hiện tốt công tác dự báo thị trường, xúc tiến thương mại, tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu. Chủ động nhận diện và cập nhật các rào cản kỹ thuật để chủ động xây dựng các biện pháp khắc phục kịp thời; kiểm soát lạm phát, lãi suất, tỷ giá phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế; chống thất thu, nợ đọng thuế, triệt để tiết kiệm chi ngân sách nhà nước; nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; bồi thường, hỗ trợ người dân ở các tỉnh bị thiệt hại do sự cố ô nhiễm môi trường biển sớm khôi phục sản xuất và ổn định đời sống, đáp ứng yêu cầu ổn định và phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả hơn, chuẩn bị cho đất nước phát triển với nhiều kỳ vọng lớn lao và tự tin hơn trong năm 2017./.
TS. Nguyễn Minh Phong
Theo Tạp chí Cộng sản
Bài viết liên quan | Xem tất cả
- Đồng chí Hoàng Văn Thụ với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần
- Đồng chí Nguyễn Văn Tố - Nhà lãnh đạo tài năng, học giả uyên bác của Việt Nam
- Đồng chí Hoàng Đình Giong, lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam
- Đồng chí Đào Duy Tùng với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Đồng chí Nguyễn Lương Bằng - Người chiến sĩ cộng sản mẫu mực, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”
- Sách đồng hành cùng doanh nghiệp trong thời đại công nghệ số
- Đồng chí Lương Khánh Thiện - người chiến sĩ cộng sản kiên trung, trọn đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Kỷ niệm 116 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn (07/4/1907 - 07/4/2023): Nhà lãnh đạo kiệt xuất trọn đời vì nước, vì dân
- Đồng chí Chu Huy Mân - Người cộng sản kiên cường, nhà chính trị xuất sắc của Đảng và Quân đội nhân dân Việt Nam (17/3/1913 - 17/3/2023)
- Đồng chí Huỳnh Tấn Phát - Người cộng sản kiên trung mẫu mực