Vận dụng kết quả tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới vào nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị

Ngày đăng: 19/07/2017 - 10:07

Ngày 12-6-2013, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 66-KL/TW về tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), trọng tâm là 10 năm gần đây (2006-2016). Thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị, Hội đồng Lý luận Trung ương, Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo tổng kết do Tổng Bí thư làm Trưởng ban đã tiến hành nhiều cuộc khảo sát, tọa đàm, hội thảo và tổ chức điều tra xã hội học với quy mô lớn. Kết quả tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016) đã được Đảng ta khẳng định tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Ðảng.

Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, trên tinh thần đổi mới tư duy, trước hết là tư duy về kinh tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã trải qua 30 năm. Trong ba thập kỷ qua, tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, rất phức tạp, khó lường; đất nước đứng trước nhiều vấn đề mới, có cả những thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức gay gắt. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đã tận dụng thời cơ, thuận lợi, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách, đưa công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu. Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Về tổng kết thực tiễn:

Với bản lĩnh chính trị vững vàng, từng trải, với tầm cao về trí tuệ và luôn bám sát thực tiễn, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn của 30 năm đổi mới:

- Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.

- Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển.

- Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường.

- Văn hoá - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi.

- Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng; đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.

- Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh.

- Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững.

- Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

Về phát triển lý luận:

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, có kế thừa những kinh nghiệm của quá trình đổi mới, cải cách mở cửa của các Đảng Cộng sản, Đảng ta đã có những phát triển về lý luận và đường lối đổi mới như sau:

- Hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Qua 30 năm đổi mới Đảng ta đã hình thành hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ: về hệ mục tiêu của đổi mới, của chủ nghĩa xã hội Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; về những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam (8 đặc trưng); về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (8 phương hướng); về nhận thức đúng và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn trong phát triển (8 mối quan hệ).

- Hệ thống quan điểm lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó Đảng ta khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập - mô hình kinh tế của Việt Nam.

- Hệ thống quan điểm lý luận về khâu đột phá chiến lược và cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng: gắn phát triển nhanh với phát triển bền vững; gắn tăng trưởng theo chiều rộng với chiều sâu; cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện ba khâu đột phá chiến lược: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ.

- Hệ thống quan điểm lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước mà chúng ta xây dựng là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, động lực của công cuộc phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

- Hệ thống quan điểm lý luận về văn hóa, con người.

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, động lực, đồng thời là nguồn lực nội sinh của phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, khẳng định đặc trưng: dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học của nền văn hóa; khẳng định con người là trung tâm của chiến lược phát triển.

- Hệ thống quan điểm về quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ gắn bó mật thiết; phải giữ vững chủ quyền biển đảo; ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương, đa phương.

- Hệ thống quan điểm lý luận về Đảng, xây dựng Đảng, về hệ thống chính trị.

Tư duy, nhận thức mới về bản chất của Đảng; đặc biệt là xây dựng Đảng về đạo đức; xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị nhằm bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân.

Bên cạnh những thành công, công tác tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận còn bộc lộ những hạn chế:

- Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

- Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.

- Việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được mục tiêu đề ra.

- Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ “tụt hậu xa hơn về kinh tế” và nguy cơ “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.

Nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, khuyết điểm, Đảng ta rút ra một số bài học sau:

Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.

Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.

Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.

GS.TS. Dương Xuân Ngọc*

Trích trong cuốnVận dụng Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào nghiên cứu,

giảng dạy lý luận chính trị và báo chí - truyền thông do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản



* Giảng viên cao cấp Khoa Chính trị học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

Bình luận