Phong cách làm việc của người đứng đầu

Ngày đăng: 21/03/2018 - 08:03

Phong cách làm việc của một người đứng đầu gắn liền với phong cách sống của người đó. Phong cách làm việc và phong cách sống cùng với phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực hợp thành tư chất con người. Phong cách làm việc của người đứng đầu được quy định bởi chức trách, nhiệm vụ, phẩm chất chính trị và đạo đức, tri thức, điều kiện hoạt động và sinh sống của người đứng đầu.

1. Những yêu cầu đối với phong cách làm việc của người đứng đầu

Phong cách làm việc của người đứng đầu rất quan trọng, bởi: Một là, người đứng đầu thường xuyên làm việc với các tổ chức và con người; chỉ có thể hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ khi phát huy tốt sức mạnh của tổ chức và tinh thần trách nhiệm, năng lực sáng tạo của đồng sự, của cấp dưới và Nhân dân. Hai là, lao động của người đứng đầu là lao động sáng tạo, chủ yếu là lao động trí óc, lao động quản lý. Ba là, người đứng đầu phải là mẫu mực, tấm gương cho cấp dưới và mọi người học tập, noi theo.

Trong tình hình hiện nay, sự cần thiết phải quan tâm xây dựng, rèn luyện phong cách làm việc đối với người đứng đầu còn xuất phát từ các lý do:

- Thời kỳ đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế đặt ra những yêu cầu mới đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung và những người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương nói riêng. Trong khi đó, mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường cũng có tác động đối với phong cách làm việc của những người đứng đầu.

- Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không chỉ đòi hỏi đội ngũ cán bộ các cấp phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, mà còn phải có phong cách làm việc khoa học, hợp lý.

- Một nội dung quan trọng trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là học tập và làm theo phong cách làm việc của Người.

- Việc tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị các cấp; dân chủ hóa các mặt của đời sống xã hội; sự phát triển ngày càng cao của đối tượng lãnh đạo, quản lý đòi hỏi những người đứng đầu ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực phải đổi mới phong cách làm việc.

Những đặc trưng chủ yếu trong phong cách làm việc của người đứng đầu:

Thứ nhất, sự thống nhất giữa tính đảng, tính nguyên tắc cao với tính năng động, sáng tạo, sự nhạy bén với cái mới.

Người đứng đầu, dù là đứng đầu tổ chức nào trong hệ thống chính trị, là cán bộ của Đảng, là người đại diện cho Đảng để lãnh đạo tổ chức, cơ quan, địa phương thực hiện đúng đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Theo đó, từ trong suy nghĩ đến lời nói, việc làm, người đứng đầu phải luôn xuất phát từ quan điểm, đường lối của Đảng, tất cả vì Đảng, vì đất nước và vì Nhân dân; phải tuyệt đối trung thành với Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng; đứng vững trên lập trường của Đảng. Là thành viên của tổ chức, người đứng đầu phải tuân thủ đúng các nguyên tắc của tổ chức đảng và pháp luật, quy định của cơ quan nhà nước, đoàn thể mà mình tham gia.

Mặt khác, trong khi nêu cao tính đảng, tính nguyên tắc, người đứng đầu phải luôn đề cao tính chủ động, sáng tạo trong đề ra các chủ trương công tác, linh hoạt trong giải quyết công việc, tránh thụ động, trông chờ ý kiến hướng dẫn, chỉ đạo của cấp trên. Để chủ động, sáng tạo, yêu cầu đầu tiên là người đứng đầu phải nhạy bén với cái mới, với các nhân tố mới.

Thứ hai, sự thống nhất giữa tính cách mạng với tính khoa học.

Tinh thần cách mạng trong phong cách làm việc của người đứng đầu không thể tách rời với tính khoa học. Sự nhiệt tình một cách mù quáng, liều lĩnh chẳng những không đem lại kết quả, mà có thể trở thành phá hoại. Tính khoa học trong phong cách làm việc của người đứng đầu thể hiện ở tác phong thận trọng, trước bất kỳ sự việc gì đều có điều tra, nghiên cứu một cách thấu đáo, tôn trọng sự thật và quy luật khách quan, không chủ quan duy ý chí. Trong phân tích sự việc phải nhìn nhận một cách toàn diện, biện chứng, nhận rõ bản chất của sự việc, nguyên nhân và các xu hướng vận động của sự việc, với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, không "tô hồng" hoặc "bôi đen". Khi phản ánh, phân tích sự việc với tập thể lãnh đạo, phải trung thực, nói đúng, nói rõ sự thật, không bớt xén, thêm thắt. Đối với những vấn đề mới và khó, liên quan đến nhiều tổ chức và con người cần tiến hành những thí điểm cần thiết từ diện hẹp rồi rút kinh nghiệm trước khi triển khai trên diện rộng. Đương nhiên, thận trọng không có nghĩa là để công việc trì trệ, chậm trễ, bỏ lỡ thời cơ.

Tính khoa học trong phong cách làm việc của người đứng đầu còn thể hiện ở việc bố trí công việc, phân công nhiệm vụ cho cấp phó và các tổ chức trực thuộc một cách hợp lý. Người đứng đầu luôn phải chịu sức ép lớn về công việc. Trong bộn bề công việc cần giải quyết, người đứng đầu phải biết sắp xếp việc nào cấp bách cần làm trước; việc nào là trọng tâm trong một thời đoạn; việc nào mình cần trực tiếp điều hành, việc nào có thể giao cấp phó phụ trách, mình chỉ chỉ đạo và kiểm tra; việc gì nên giao cho tổ chức, cá nhân nào chủ trì, các tổ chức, cá nhân khác phối hợp...

Thứ ba, sự thống nhất giữa cách làm việc dân chủ, tập thể với tính quyết đoán và tinh thần trách nhiệm cá nhân cao.

Dù tài giỏi mấy, người đứng đầu cũng chỉ là một thành viên của tập thể, cũng không thể tự mình làm được tất cả mọi việc. Từ nhận thức đến ra quyết định và thực hiện các quyết định, người đứng đầu đều cần có sự giúp đỡ, cộng tác của tập thể. Thật sự khiêm tốn, cầu thị; tôn trọng tập thể, biết dựa vào tập thể, phát huy trí tuệ và sức mạnh của tập thể, tranh thủ được sự ủng hộ và hưởng ứng của tập thể sẽ nhân lên trí tuệ và hiệu quả lãnh đạo của người đứng đầu.

Muốn vậy, đối với một chủ trương công tác, người đứng đầu cần đưa ý tưởng của mình ra tập thể cùng thảo luận, bàn bạc, trước hết là với các thành viên trong tập thể lãnh đạo, với cấp phó và người đứng đầu đơn vị trực thuộc liên quan trực tiếp; nếu có ý kiến phản đối, hoặc nghi ngại, người đứng đầu phải nghiêm túc xem xét lại. Điều quan trọng là người đứng đầu phải khơi dậy được ý thức trách nhiệm, trí tuệ của mọi người, tạo lập được bầu không khí dân chủ, thẳng thắn và xây dựng; tuyệt đối không áp đặt trước ý kiến cá nhân khi thảo luận những công việc chung.

Người đứng đầu phải chịu trách nhiệm cá nhân về mức độ hoàn thành nhiệm vụ chính trị và chất lượng nội bộ tổ chức, cơ quan, đơn vị, kể cả liên đới trách nhiệm đối với sai phạm của người dưới quyền. Vì vậy, tính quyết đoán theo phương châm "dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm" là yêu cầu bắt buộc trong phong cách làm việc của người đứng đầu.

Thứ tư, sự thống nhất giữa tri thức và hành động, nói đi đôi với làm.

Người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị đương nhiên phải tiêu biểu cho trí tuệ của tập thể, đồng thời phải tiên phong trong hành động. Có thể, người đứng đầu không hẳn là người có trình độ trí tuệ cao nhất, cũng không hẳn là người làm công việc cụ thể có năng suất cao nhất, nhưng ở họ phải có sự thống nhất cao giữa nhận thức và hành động. Người đứng đầu không làm thay mọi người, nhưng không phải chỉ đề ra chủ trương, nhiệm vụ cho người khác làm, còn mình thì đứng ngoài cuộc. Có thống nhất giữa nhận thức và hành động, người đứng đầu mới cân nhắc thận trọng khi đề ra nhiệm vụ, nhất là tính khả thi của các mục tiêu, giải pháp, tránh đề ra chủ trương chung chung, thiếu cơ sở thực hiện.

Trên cơ sở nắm vững tri thức lý luận, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, chủ trương của cấp trên, người đứng đầu phải nắm chắc tình hình thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị để cùng với tập thể lãnh đạo đề ra chủ trương, nhiệm vụ và giải pháp hợp lý, đồng thời tổ chức thực hiện cho được các chủ trương, nhiệm vụ đã đề ra. Trong quá trình thực hiện, nếu xuất hiện tình thế mới, hoặc thực tế cho thấy chủ trương đã đề ra không phù hợp, thì phải bàn với tập thể để điều chỉnh kịp thời, không nên cứng nhắc.

Chừng nào chưa rõ phương án, mô hình, nội dung công việc phải làm thì chưa vội đề ra chủ trương, nghị quyết. Mỗi công việc đều phải giao một tổ chức hoặc cá nhân chịu trách nhiệm chính; định rõ yêu cầu, lộ trình và thời hạn hoàn thành; xác định rõ các điều kiện bảo đảm.

Thứ năm, sâu sát cơ sở, thường xuyên liên hệ mật thiết với Nhân dân; coi trọng việc thuyết phục, tạo sự đồng thuận cao trong tập thể và hoạt động kiểm tra.

Một trong những nguy cơ làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng là quan liêu, xa dân. Nếu mắc bệnh này, các quyết định mà người lãnh đạo đưa ra sẽ không sát tình hình thực tế, không hợp lòng dân và do đó không được thực hiện. Người lãnh đạo càng cao thì càng cần sâu sát thực tiễn ở cơ sở, gần dân, nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của các đối tượng, trực tiếp nghe ý kiến của người dân. Ngoài các cuộc hội họp bắt buộc, người đứng đầu phải có chương trình, dành thời gian thỏa đáng cho việc đi cơ sở. Tại cơ sở, người đứng đầu lắng nghe Nhân dân nói, nói cho Nhân dân hiểu, bàn bạc với Nhân dân; đặc biệt chú ý những đề xuất, sáng kiến và những thắc mắc của Nhân dân. Điều gì Nhân dân chưa biết thì người đứng đầu phải thông tin; điều gì Nhân dân hiểu chưa đúng thì người đứng đầu cần giảng giải, uốn nắn; điều gì Nhân dân phê phán lãnh đạo thì người đứng đầu phải tiếp thu để sửa chữa. Trong việc đi cơ sở, điều cốt yếu là tiếp xúc, đối thoại trực tiếp, thẳng thắn với Nhân dân, với những người trực tiếp lao động, chứ không phải chỉ với những đại diện người dân đã được chọn cử. Ngoài việc trực tiếp xuống cơ sở, người đứng đầu cần yêu cầu các cán bộ dưới quyền tăng cường đi cơ sở để nắm tình hình và giải quyết kịp thời các vấn đề đặt ra, các kiến nghị của cơ sở và của người dân; đồng thời, duy trì chế độ báo cáo định kỳ của cấp dưới; thường xuyên theo dõi báo chí, dư luận để nắm bắt thông tin nhiều chiều.

Đối với người đứng đầu, yêu cầu đầu tiên có tính cốt tử là phải tạo lập được sự đồng tình, nhất trí trước hết trong cấp ủy, tập thể lãnh đạo, tiếp đến là đội ngũ cán bộ chủ chốt, cuối cùng là đông đảo Nhân dân trong địa phương và cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, đơn vị. Trong điều hành, đương nhiên người đứng đầu được phép và cần phải sử dụng các biện pháp hành chính, pháp chế, tổ chức. Song, sẽ là sai lầm nếu lạm dụng các biện pháp đó, nếu không biết kết hợp các biện pháp đó với công tác tư tưởng nhằm chinh phục, tranh thủ được sự đồng tình của cấp dưới để mọi người ủng hộ một cách thật sự tự giác chứ không phải chấp hành một cách miễn cưỡng. Cách giải quyết công việc thiên về sử dụng mệnh lệnh, quy định hành chính, áp đặt chẳng những không đem lại hiệu quả, đôi khi còn phản tác dụng, dẫn đến sự đối phó của cấp dưới. Nếu trong tập thể lãnh đạo, các cán bộ cấp phó chỉ phục tùng người đứng đầu theo nguyên tắc tổ chức, hành chính, còn trong thực chất không tán thành các chủ trương công tác của người đứng đầu sẽ khó tránh khỏi xảy ra tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", công việc bê trễ, thậm chí nội bộ mất đoàn kết, có đơn thư khiếu kiện.

Để đạt được sự đồng thuận cao, cùng với việc thực hành dân chủ rộng rãi, có thực chất chứ không hình thức, giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích, người đứng đầu phải rất chú trọng việc thuyết phục, làm công tác tư tưởng riêng với cấp phó, cấp ủy viên và người đứng đầu các tổ chức, đơn vị trực thuộc. Việc này có thể mất thời gian, nhưng là việc rất cần thiết, không thể không làm và làm một cách thật sự chân thành, không làm chiếu lệ.

Người đứng đầu phải tin tưởng cấp dưới, mạnh dạn giao việc cho cấp dưới. Nhưng, cùng với điều đó, người đứng đầu phải đặc biệt quan tâm đến việc kiểm tra. Kiểm tra không chỉ để đôn đốc cấp dưới thực hiện đúng chủ trương, kế hoạch, đúng tiến độ công việc, mà còn để phát hiện những tập thể, cá nhân có sáng kiến hay có thể nhân rộng, những tập thể và cá nhân làm không đúng phải chấn chỉnh; để thấy các khó khăn, vướng mắc cần giải quyết; kịp thời điều chỉnh kế hoạch, biện pháp thực hiện. Mặc dù toàn bộ bộ máy đã tự kiểm tra, ở các cấp trên cơ sở đã có tổ chức, cơ quan kiểm tra chuyên trách, nhưng người đứng đầu vẫn phải trực tiếp tiến hành việc kiểm tra. Hoạt động kiểm tra của người đứng đầu vừa là thực hiện nguyên tắc không kiểm tra coi như không lãnh đạo, vừa thể hiện phong cách làm việc sâu sát, cụ thể, thiết thực.

2. Con đường rèn luyện phong cách làm việc của người đứng đầu

Để có phong cách làm việc đúng đắn, mỗi người đứng đầu phải học tập, tu dưỡng một cách toàn diện cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, không ngừng nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ. Mặt khác, các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước có trách nhiệm giáo dục, tạo môi trường thuận lợi và giúp đỡ những người đứng đầu không ngừng hoàn thiện phong cách làm việc.

Để hình thành phong cách làm việc đúng đắn, sự tự giác rèn luyện của cá nhân người đứng đầu giữ vai trò quyết định, không ai có thể làm thay. Trước hết, mỗi người cần từ bỏ quan niệm cho rằng phong cách làm việc là cái cố hữu, mặc nhiên, không thể thay đổi. Cách thức rèn luyện thiết thực nhất đối với mỗi người là học tập và làm theo tấm gương, phong cách làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo định hướng chung đó, mỗi người, tùy theo vị trí, hoàn cảnh công tác của mình, luôn tự kiểm điểm xem mình còn yếu và thiếu những gì, từ đó xác định quyết tâm và có kế hoạch để khắc phục.

Các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị cũng cần nhận rõ trách nhiệm của mình trong việc xây dựng phong cách làm việc cho người đứng đầu. Thông qua tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng và tập thể lãnh đạo, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các kế hoạch công tác, với thái độ chân tình và xây dựng, tổ chức đảng, các cán bộ lãnh đạo cơ quan, đơn vị thẳng thắn chỉ ra cho người đứng đầu những khuyết điểm cần sửa và giúp người đứng đầu sửa chữa. Bằng cách đó, cùng với thời gian, người đứng đầu hoàn thiện dần nhân cách cá nhân, kể cả phong cách làm việc, đáp ứng tốt yêu cầu của cương vị công tác và xứng đáng với niềm tin của mọi người.

PGS.TS. Trần Khắc Việt

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trích trong cuốn sách "Nâng cao vai trò, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản

Bình luận