Bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương năm của Tổng Bí thư

Ngày đăng: 15/05/2012 - 22:05

 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.
"Thưa các đồng chí Trung ương,

Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,

Sau 9 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, trong không khí dân chủ, đổi mới, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI đã hoàn thành nội dung chương trình đề ra. Các đồng chí Ủy viên Trung ương và các đồng chí tham dự Hội nghị đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, phát huy trí tuệ, đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, sâu sắc vào các đề án, báo cáo, tờ trình. Đã có hơn 750 lượt ý kiến phát biểu ở tổ và Hội trường; nhiều đồng chí gửi ý kiến bằng văn bản hoặc sửa trực tiếp vào các dự thảo nghị quyết, kết luận. Bộ Chính trị đã tiếp thu tối đa và giải trình những vấn đề còn có ý kiến khác nhau; Ban Chấp hành Trung ương đã thống nhất cao thông qua nội dung các nghị quyết, kết luận của Hội nghị. Để kết thúc Hội nghị, thay mặt Bộ Chính trị, tôi xin phát biểu mấy ý kiến, làm rõ thêm một số vấn đề và khái quát lại những kết quả quan trọng mà Hội nghị đã đạt được.

1- Về tổng kết, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992

Đây là một nội dung rất lớn, đặc biệt quan trọng của Hội nghị lần này. Trung ương đã thảo luận, tranh luận rất sôi nổi, thẳng thắn, đầy tinh thần trách nhiệm và thống nhất nhận định: Hiến pháp năm 1992 là Hiến pháp của thời kỳ đầu đổi mới, là đạo luật cơ bản của Nhà nước, văn kiện chính trị - pháp lý quan trọng, thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước ta, chế độ ta trong thời kỳ mới. Hiến pháp năm 1992 đã quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước; thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Hiến pháp đã tạo cơ sở hiến định cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trung ương nhấn mạnh, cần phải thấy hết những giá trị to lớn và ý nghĩa lịch sử của Hiến pháp năm 1992. Ra đời trong bối cảnh công cuộc đổi mới ở nước ta vừa mới bắt đầu, tình hình thế giới có những biến đổi to lớn và rất phức tạp. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, tạo nên cơn chấn động chính trị lớn nhất trong phong trào cách mạng thế giới; và là thách thức vô cùng to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Ở trong nước, chúng ta đang trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế-xã hội, lại bị bao vây, cấm vận. Nhưng, với bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí cách mạng kiên định và tầm nhìn chiến lược sáng suốt, Đảng ta tại Đại hội VII (tháng 6-1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Và chỉ chưa đầy một năm sau, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp 1992 trên cơ sở sửa đổi căn bản, toàn diện Hiến pháp năm 1980, kịp thời thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng mà tập trung ở Cương lĩnh năm 1991.

Năm 2001, trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng ta, tại Đại hội IX (tháng 4-2001), tiếp tục có những bổ sung, phát triển quan trọng về đường lối đổi mới cả về kinh tế và chính trị, đối nội và đối ngoại. Và sau đó Hiến pháp năm 1992 được bổ sung, sửa đổi để kịp thời thể chế hóa chủ trương của Đảng. Có thể nói, Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) là thành quả rất to lớn của cách mạng, là bước phát triển nhận thức, đổi mới tư duy của Đảng ta, Nhà nước ta, đóng góp hết sức quan trọng, tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới ở nước ta.

Đến nay, Hiến pháp năm 1992 đã đi qua chặng đường 20 năm. Đại hội XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); có nhiều vấn đề mới được đặt ra, có những quy định của Hiến pháp năm 1992 đã bị thực tiễn vượt qua, không còn phù hợp. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 là yêu cầu khách quan, cần thiết. Tuy nhiên, sửa đổi, bổ sung những gì và như thế nào, đòi hỏi phải có quan điểm và phương pháp tư tưởng đúng đắn, khoa học, biện chứng, xuất phát từ yêu cầu phát triển và thực tiễn của đất nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (tháng 7-2011) đã chỉ rõ mục đích, yêu cầu, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo việc tổng kết sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Tại Hội nghị lần này, Trung ương đã xem xét, thảo luận Báo cáo của Ủy ban dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, cơ bản tán thành nhiều nội dung của Báo cáo và Tờ trình. Đồng thời tiếp tục nhấn mạnh, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp là công việc đặc biệt quan trọng, nhạy cảm, phải có quan điểm và cách nhìn toàn diện, biện chứng, cụ thể, lịch sử, có cách làm khoa học, thận trọng; tránh tư duy tư biện, xa rời thực tiễn. Các đề xuất sửa đổi, bổ sung phải dựa trên kết quả tổng kết sâu sắc thực tế thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật có liên quan; quán triệt đầy đủ yêu cầu thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp.

Về chế độ chính trị , phải khẳng định chế độ dân chủ ở nước ta là dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tiễn cuộc sống. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.

Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra và có quyền lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.

Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc - là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Các tổ chức của Đảng và đảng viên luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các thành viên. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.

Về chế độ kinh tế, khẳng định chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời... thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý...

Về quy trình sửa đổi Hiến pháp, cần thực hiện theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 (khóa XI) và Điều 147 của Hiến pháp hiện hành, tiến hành một cách chặt chẽ, khoa học, dưới sự lãnh đạo của Đảng; có cơ chế bảo đảm sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý và tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân về các nội dung sửa đổi, để Quốc hội có đầy đủ cơ sở xem xét, quyết định.

Cùng với việc cho ý kiến về định hướng những nội dung cơ bản cần bổ sung, sửa đổi Hiến pháp năm 1992, các đồng chí Trung ương cũng đã góp nhiều ý kiến quan trọng vào các phương án cụ thể, làm rõ hơn những mặt được, mặt chưa được của mỗi phương án để Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp tiếp tục cân nhắc, lựa chọn.

2- Về chính sách, pháp luật đất đai

Nhận thức đất đai, quản lý và sử dụng đất đai không chỉ là vấn đề kinh tế rộng lớn, phức tạp mà còn là vấn đề chính trị xã hội rất hệ trọng, nhạy cảm, liên quan đến việc giữ vững thành quả của cách mạng, của cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, Trung ương đã dành nhiều thời gian thảo luận kỹ lưỡng và sâu sắc về vấn đề này. Trung ương khẳng định, sau gần 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX), chúng ta đã thu được nhiều kết quả tích cực, góp phần khai thác và phát huy hiệu quả tài nguyên đất đai, phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cụ thể là, thông qua việc thực hiện Nghị quyết, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai từng bước được nâng cao, bảo đảm quỹ đất phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định xã hội, an ninh lương thực, cân bằng sinh thái, bảo vệ môi trường. Chính sách, pháp luật đất đai từng bước được hoàn thiện; các quyền của người sử dụng đất được mở rộng và được Nhà nước bảo đảm. Thị trường bất động sản, trong đó có quyền sử dụng đất, đã tạo lập được cơ chế hoạt động, phát triển tương đối nhanh, đồng bộ.

Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về đất đai còn nhiều bất cập. Quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch chuyên ngành chưa đồng bộ, chất lượng thấp; việc thực hiện quy hoạch, thu hồi đất và tuân thủ pháp luật ở một số nơi chưa nghiêm; thủ tục hành chính còn rườm rà, thiếu công khai, minh bạch. Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, xác định giá đất, hỗ trợ tái định cư mỗi khi phải thu hồi đất rất khó khăn. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai chưa đáp ứng yêu cầu, dẫn đến nhiều vụ việc phải qua nhiều cấp kéo dài, rất phức tạp. Việc sử dụng đất ở nhiều nơi còn lãng phí, thất thoát lớn. Thị trường bất động sản, trong đó có quyền sử dụng đất, phát triển không ổn định, thiếu lành mạnh, giao dịch "ngầm" khá phổ biến. Tình trạng đầu cơ đất đai, phát triển quá nóng thị trường bất động sản xảy ra ở nhiều nơi, nhất là ở một số thành phố lớn, tác động xấu đến ổn định kinh tế vĩ mô. Lợi ích của Nhà nước và người dân có đất bị thu hồi chưa được bảo đảm tương xứng; chưa đáp ứng được nhu cầu nhà ở, đất ở của các đối tượng chính sách xã hội, cán bộ, công chức, người có thu nhập thấp. Chính sách đất đai đối với một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn những vướng mắc chậm được giải quyết. Tổ chức bộ máy, năng lực đội ngũ cán bộ về quản lý đất đai chưa đáp ứng được yêu cầu thực thi nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ, công chức lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, tham nhũng. Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi sai phạm trong quản lý đất đai còn chưa nghiêm.

Hội nghị nhất trí cho rằng: Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn sống của nhân dân; là tài sản, là nguồn lực to lớn của đất nước. Phải tiếp tục khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý; đồng thời quy định rõ ràng, cụ thể hơn các quyền của đại diện chủ sở hữu và quyền thống nhất quản lý của Nhà nước, đặc biệt là trong việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; cho phép chuyển mục đích sử dụng và quy định thời hạn sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không phải do người sử dụng đất tạo ra; trao quyền sử dụng đất và thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội theo quy định của pháp luật; tái định cư, tổ chức lại sản xuất

Bình luận

Bài viết liên quan | Xem tất cả