Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước

Ngày đăng: 22/03/2016 - 08:03

nguyen xuan phuc213Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trình bày Báo cáo của Chính phủ  tại Kỳ họp thứ 11, Quốc hội Khóa XIII.

Sáng 21-3, tại Kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa XIII, thay mặt Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trình bày Báo cáo của Chính phủ về đánh giá bổ sung kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2015, kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm 2011-2015 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020. Tạp chí Nhịp cầu Tri thức xin giới thiệu toàn văn Báo cáo của Chính phủ.

Thưa Quốc hội,

Thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Thưa các đồng chí lão thành cách mạng và các vị khách,

Thưa đồng chí, đồng bào,

Theo chương trình Kỳ họp, Chính phủ đã gửi đến Quốc hội Báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015, triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016 và Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020. Theo sự phân công của đồng chí Thủ tướng, thay mặt Chính phủ, tôi xin trân trọng báo cáo Quốc hội và đồng bào cả nước những nội dung chủ yếu như sau:

A. ĐÁNH GIÁ BỔ SUNG KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2015

Tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá XIII, trên cơ sở kết quả 9 tháng, Chính phủ đã báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 và kế hoạch năm 2016. Trong những tháng cuối năm 2015, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra. Tổng hợp kết quả thực hiện cả năm, Chính phủ xin báo cáo bổ sung như sau:

Năm 2015, chúng ta đã hoàn thành hầu hết các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Trong 14 chỉ tiêu chủ yếu, có 12 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch, 2 chỉ tiêu không đạt. Ngoài chỉ tiêu tỷ lệ che phủ rừng không đạt như đã báo cáo, còn thêm chỉ tiêu tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu là 7,9% (kế hoạch là khoảng 10%). So với số đã báo cáo Quốc hội, có 5 chỉ tiêu đạt tốt hơn và 2 chỉ tiêu thấp hơn[i].

Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đạt 6,68%, cao nhất kể từ năm 2008[ii]. Kinh tế vĩ mô ổn định; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 0,6%, thấp nhất kể từ năm 2001[iii]. Mặt bằng lãi suất, tỷ lệ nợ xấu giảm; tỷ giá được điều chỉnh chủ động, linh hoạt. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP là 32,6%; vốn FDI thực hiện đạt 14,5 tỷ USD. An sinh xã hội được bảo đảm, đời sống của người dân tiếp tục được cải thiện; tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,7 2%, riêng các huyện nghèo giảm 5%. Tạo việc làm cho trên 1,62 triệu người. Cả nước có 15 huyện và 1.526 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 17,1% tổng số xã. Tai nạn giao thông giảm cả 3 tiêu chí, số vụ giảm 11,52%, số người chết giảm 3,61%, số người bị thương giảm 15,81%. Quốc phòng, an ninh tiếp tục được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều kết quả tích cực.

Trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, kết quả đạt được là sự nỗ lực, cố gắng rất lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, cộng đồng doanh nghiệp và cho thấy những nhận định, đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội năm 2015 như đã báo cáo Quốc hội cơ bản là phù hợp.

B. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2011-2015

Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Chính phủ tiếp tục hoàn thiện Báo cáo đánh giá tình hình kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 và kế hoạch 5 năm  2016-2020.

I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

1. Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 18,13% năm 2011 xuống còn 0,6% năm 2015; mặt bằng lãi suất giảm khoảng 50% so với cuối năm 2011; dư nợ tín dụng tăng, chất lượng tín dụng từng bước được cải thiện. Tỷ giá, thị trường ngoại hối ổn định; khắc phục được cơ bản tình trạng sử dụng đô la, vàng trong thanh toán; niềm tin vào đồng tiền Việt Nam tăng lên. Các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm. Kim ngạch xuất khẩu tăng khá cao, đạt bình quân 17,5%/năm. Cán cân thương mại được cải thiện; cán cân thanh toán quốc tế thặng dư; dự trữ ngoại hối đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Đẩy mạnh chống thất thu, xử lý nợ đọng thuế; thu ngân sách tăng gần 2 lần so với giai đoạn trước. Tăng cường quản lý chi ngân sách, ưu tiên bảo đảm an sinh xã hội và phát triển con người. Nợ công cơ bản trong giới hạn theo quy định. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp hơn 1,8 lần so với 5 năm trước, đạt bình quân 31,7% GDP; vốn FDI thực hiện tăng 35,6%, vốn ODA giải ngân tăng 61%. Tăng cường quản lý thị trường, giá cả, bảo đảm cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu và đẩy mạnh phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại.

2. Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn năm trước. Tăng trưởng GDP bình quân 5 năm đạt 5,91%. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng; GDP năm 2015 đạt 193,4 tỷ USD, bình quân đầu người 2.109 USD. Khu vực công nghiệp, xây dựng phục hồi và tăng trưởng cao hơn vào những năm cuối, tăng bình quân 6,9%/năm. Khu vực nông nghiệp phát triển khá ổn định, tăng bình quân 3%/năm. Khu vực dịch vụ tăng trưởng khá, đạt bình quân 6,3%/năm. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng bình quân 14,1%/năm, loại trừ yếu tố giá còn tăng 5,6%. Chất lượng tăng trưởng nhiều mặt được nâng lên; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng khoảng 29%; năng suất lao động tăng bình quân 4,2%/năm.

3. Ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt kết quả tích cực. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa[iv]. Tập trung triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013[v]. Quy hoạch phát triển được rà soát, điều chỉnh phù hợp hơn với kinh tế thị trường[vi]. Các loại thị trường được hình thành và từng bước phát huy hiệu quả. Thực hiện giá thị trường theo lộ trình đối với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu gắn với hỗ trợ các đối tượng chính sách, người nghèo. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, minh bạch, bình đẳng hơn; năng lực cạnh tranh được nâng lên.

Phát triển nguồn nhân lực đạt những kết quả tích cực. Mạng lưới giáo dục, đào tạo được mở rộng, quy mô và chất lượng được nâng lên. Đẩy mạnh dạy nghề, nhất là cho lao động nông thôn; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 51,6%. Đầu tư xã hội cho khoa học công nghệ tăng nhanh; đầu tư từ ngân sách nhà nước đạt khoảng 2% tổng chi ngân sách. Ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp, thông tin truyền thông, y tế, giao thông, xây dựng có nhiều tiến bộ.

Chính sách, pháp luật và quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng tiếp tục được hoàn thiện. Đã huy động các nguồn lực, đa dạng hoá phương thức đầu tư. Nhiều công trình quan trọng, thiết yếu được đưa vào sử dụng, tạo diện mạo mới cho đất nước và góp phần tích cực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế[vii].

4. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt được kết quả bước đầu. Tích cực triển khai thực hiện Đề án tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế và các đề án tái cơ cấu ngành, lĩnh vực. Tập trung thực hiện tái cơ cấu về đầu tư công, các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới.

Trình ban hành và thực hiện Luật Đầu tư công, đổi mới cơ chế phân bổ vốn theo kế hoạch trung hạn. Tập trung vốn đầu tư cho các công trình, dự án quan trọng, cấp thiết và vốn đối ứng cho các dự án ODA, từng bước khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản. Đẩy mạnh phân cấp gắn với đề cao trách nhiệm của các Bộ ngành, địa phương và chủ đầu tư. Tăng cường thu hút vốn đầu tư ngoài nhà nước. Trong 5 năm, vốn FDI thực hiện đạt 60,5 tỷ USD; vốn ODA giải ngân đạt 22,3 tỷ USD; đầu tư tư nhân chiếm 38,6% tổng đầu tư toàn xã hội.

Tập trung xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, nhất là ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém; tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, bảo đảm an toàn hệ thống. Từng bước áp dụng chuẩn mực quản trị theo thông lệ quốc tế. Phát huy vai trò của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC). Tỷ lệ nợ xấu giảm dần[viii], đã giảm 20 tổ chức tín dụng. Thị trường tài chính có bước phát triển; mức vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt 33%, thị trường trái phiếu đạt 23% GDP.  

Đẩy mạnh tái cơ cấu, tập trung cổ phần hoá, thoái vốn đầu tư ngoài ngành và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; đã sắp xếp 558 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 478, đạt 93% kế hoạch. Doanh nghiệp nhà nước tập trung hơn vào những lĩnh vực then chốt, quốc phòng, an ninh, cung ứng hàng hoá và dịch vụ công thiết yếu. Quản lý nhà nước được tăng cường, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp nhà nước được hoàn thiện, xác định rõ quyền, trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước và công khai, minh bạch hoạt động. Năng lực quản trị, tiềm lực tài chính và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước được nâng lên; vốn nhà nước được bảo toàn và phát triển[ix].

Tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới được chú trọng; tập trung tổ chức lại sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, khai thác hải sản xa bờ. Đa dạng hóa các loại hình hợp tác liên kết, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư trên địa bàn nông thôn. Rà soát, điều chỉnh các chính sách, tiêu chí xây dựng nông thôn mới; thu hút được nhiều nguồn lực và sự tham gia của người dân.

Tái cơ cấu công nghiệp, dịch vụ theo hướng tập trung phát triển các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế, nâng cao giá trị quốc gia, giá trị gia tăng, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Từng bước tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.

Quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng được rà soát, điều chỉnh phù hợp hơn với kinh tế thị trường[x]. Hỗ trợ phát triển vùng khó khăn, nhất là Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Tập trung thực hiện Chiến lược biển, đầu tư phát triển các ngành khai thác dầu khí, vận tải, cảng biển, đóng và sửa chữa tàu, du lịch biển, nuôi trồng thuỷ sản; phát triển dịch vụ hậu cần nghề cá và đẩy mạnh khai thác xa bờ gắn với bảo vệ chủ quyền biển đảo.

 5. Văn hoá, xã hội có bước phát triển, an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Trong bối cảnh kinh tế có nhiều khó khăn, đã tăng ngân sách và huy động nguồn lực để thực hiện các chính sách xã hội. Hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, nhất là về giảm nghèo. Mở rộng đối tượng thụ hưởng, nâng mức hỗ trợ và thực hiện đồng bộ nhiều chính sách người có công, giảm nghèo, tạo việc làm, trợ giúp xã hội, tín dụng cho học sinh, sinh viên nghèo... Tạo việc làm cho 7,8 triệu người. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 14,2% năm 2010 xuống dưới 4,5% năm 2015; riêng các huyện nghèo giảm từ 58,3% xuống còn 28%. Làm tốt công tác y tế dự phòng, không để dịch bệnh lớn xảy ra. Chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên; giảm quá tải bệnh viện đạt kết quả bước đầu. Tập trung đầu tư xây dựng hệ thống các bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh và tuyến cuối; phát triển đội ngũ cán bộ y tế. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 75%. Tuổi thọ trung bình đạt 73,3 tuổi. Chú trọng quản lý thuốc chữa bệnh, phát triển y học cổ truyền, công nghiệp dược và vệ sinh an toàn thực phẩm.

Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đạt kết quả tích cực; các giá trị văn hoá dân tộc và di tích lịch sử được quan tâm bảo tồn, phát huy. Nhiều di sản được công nhận là di sản văn hoá quốc gia và thế giới[xi]. Quản lý lễ hội và các hoạt động văn hóa nghệ thuật có bước tiến bộ. Quan tâm công tác người cao tuổi, trẻ em, gia đình, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ. Thể dục thể thao được đẩy mạnh. Chính sách dân tộc được chú trọng và đạt nhiều kết quả; tự do tín ngưỡng, tôn giáo được bảo đảm. Quản lý nhà nước về thông tin truyền thông và an toàn, an ninh thông tin mạng được quan tâm.

6. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trư?

Bình luận