Chiến thắng 30/4/1975 - Sự hội tụ ý chí, khát vọng thống nhất và sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam

Ngày đăng: 22/07/2020 - 15:07

Cách đây 45 năm, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử của quân và dân Việt Nam đã giành thắng lợi hoàn toàn. Ngày 30/4/1975 đã đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son chói lọi, đưa đất nước bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hòa bình, độc lập, thống nhất và phát triển vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Chiến thắng ngày 30/4/1975 là thành quả vĩ đại của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, trang sử hào hùng, chói lọi trong công cuộc dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam. Quân và dân Việt Nam đã đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ vì độc lập tự do, thống nhất đất nước. Thắng lợi vĩ đại đó là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó có sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Chính phủ và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc, của các lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình, tiến bộ trên toàn thế giới.


1. Chủ trương và kế hoạch chiến lược của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) và Quân ủy Trung ương
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, mặc dù buộc phải rút hết quân về nước, nhưng Mỹ vẫn âm mưu dùng chính quyền và quân đội Sài Gòn làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Mỹ tăng cường viện trợ tiền của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho quân đội Sài Gòn, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. Chính quyền Sài Gòn công khai tuyên bố không thi hành Hiệp định Paris, khủng bố khốc liệt các lực lượng yêu nước và cách mạng, liên tục tổ chức nhiều cuộc tiến công hòng xóa bỏ vùng giải phóng, đẩy lùi lực lượng cách mạng, tiếp tục chia cắt lâu dài đất nước.
Để định ra chủ trương, phương hướng cho cách mạng miền Nam, ngày 24/5/1973, Bộ Chính trị Trung ương Đảng tiến hành Hội nghị mở rộng với sự tham gia của một số cán bộ trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy trên các chiến trường. Sau khi nghiên cứu, thảo luận, Hội nghị thống nhất nhận định, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chuẩn bị điều kiện đầy đủ nhất để có thể chủ động đối phó với đối phương trong mọi tình huống, sẵn sàng đưa cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Tiếp đó, tháng 10/1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 21 (đợt 2). Từ thực tiễn tình hình miền Nam, Hội nghị xác định hai khả năng: Một là, đối phương buộc phải thi hành Hiệp định Paris, hòa bình được lập lại thật sự, nhiệm vụ giành độc lập, dân chủ hoàn thành. Hai là, đối phương phá hoại Hiệp định, “phải tiến hành chiến tranh cách mạng gay go, quyết liệt để đánh bại địch, giành thắng lợi hoàn toàn1. Cân nhắc các tình huống sẽ xảy ra, Hội nghị khẳng định, vấn đề mấu chốt để hoàn thành công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà là “Trong bất cứ tình hình nào, phải nắm vững lực lượng vũ trang”2. Trung ương Đảng chỉ đạo, lực lượng cách mạng miền Nam phải “kiên quyết phản công và tiến công địch, giữ vững và phát huy thế chủ động về mọi mặt”3.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, sau những phút vui mừng phấn khởi, có phần mất cảnh giác khi Hiệp định Paris được ký kết, dẫn đến mất đất, mất dân do hành động phá hoại Hiệp định của đối phương, quân và dân miền Nam đã chủ động chống trả quyết liệt các cuộc hành quân lấn chiếm của quân đội Sài Gòn. Những thắng lợi liên tiếp trên chiến trường miền Nam cuối năm 1973 nửa đầu 1974 đã minh chứng rằng, dù đã rất cố gắng về mọi mặt, song quân đội Sài Gòn vẫn không đủ sức đương đầu với Quân giải phóng nói riêng, quân và dân miền Nam nói chung. Thời cơ và điều kiện thuận lợi để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước xuất hiện. Kế hoạch giải phóng miền Nam bắt đầu được Bộ thống soái tối cao triển khai hoạch định. Ngày 21/7/1974, tại Đồ Sơn (Hải Phòng) đã diễn ra cuộc họp quan trọng dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Lê Duẩn với một số thành viên Quân ủy Trung ương và Cục Tác chiến - Bộ Tổng Tham mưu. Tại cuộc họp, các thành viên tham dự đều thống nhất đánh giá đây là thời cơ thuận lợi nhất để Nhân dân Việt Nam hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đồng thời giúp Lào và Campuchia hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngoài thời cơ này, không có thời cơ nào khác. Phải xây dựng kế hoạch chiến lược sao cho tạo được thời cơ chiến lược và sẵn sàng chớp thời cơ giành thắng lợi quyết định. Bộ Tổng Tham mưu được Tổng Bí thư Lê Duẩn giao cho nghiên cứu soạn thảo Kế hoạch tác chiến chiến lược giải phóng miền Nam để trình Bộ Chính trị vào tháng 9/1974. 
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tướng Văn Tiến Dũng, Thượng tướng Hoàng Văn Thái, Trung tướng Lê Trọng Tấn, đặc biệt là sự hối thúc mãnh liệt của quân và dân miền Nam, chỉ hơn một tháng tích cực triển khai thực hiện, bản Dự thảo Kế hoạch tác chiến chiến lược giải phóng miền Nam đã được hoàn thành vào ngày 26/8/1974. Nội dung kế hoạch gồm hai bước: Bước 1 (thực hiện trong năm 1975), tranh thủ bất ngờ tiến công lớn và rộng khắp. Bước 2 (thực hiện trong năm 1976), thực hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. 
Từ ngày 30/9 đến 08/10/1974, Bộ Chính trị Trung ương Đảng tiến hành Hội nghị để thảo luận kế hoạch giải phóng miền Nam. Hội nghị cơ bản nhất trí với nội dung bản Dự thảo kế hoạch do Cục Tác chiến soạn thảo và xác định quyết tâm chiến lược: “Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân ngụy, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền ở trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà…, phải tiến hành mọi công việc chuẩn bị thật khẩn trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất đầy đủ nhất để đánh mạnh, đánh nhanh, thắng gọn và thắng triệt để trong hai năm 1975-19764. Tây Nguyên được xác định là hướng tiến công chính trong năm 1975.
Để tạo thực lực vững chắc cho thắng lợi của công cuộc giải phóng miền Nam, ngay sau khi Hiệp định Paris được ký kết, việc chuẩn bị đã được xúc tiến triển khai. Hàng vạn thanh niên miền Bắc đã hăng hái xung phong nhập ngũ, sẵn sàng ra mặt trận. Lực lượng bổ sung cho chiến trường từ miền Bắc được tăng cường: năm 1973 là 129.311 người; năm 1974 là 117.545 người; đầu năm 1975 tăng lên 238.646 người. Tại các vùng giải phóng miền Nam, trong các năm 1973, 1974, Mặt trận Dân tộc giải phóng đã huy động được 12.000 thanh niên gia nhập quân đội và đẩy mạnh phát triển bộ đội địa phương, dân quân du kích. Về vật chất, phương tiện chiến tranh, lúc này viện trợ của các nước cho Việt Nam bắt đầu giảm dần từ 66% năm 1973, chỉ còn 29,6% năm 1974, đến năm 1975 bị cắt hoàn toàn. Tuy nhiên, với quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, miền Bắc đã đáp ứng kịp thời, đầy đủ số lượng vật chất phục vụ chiến đấu cho chiến trường miền Nam: năm 1973 đạt hơn 1 triệu tấn, năm 1974 là 683.089 tấn và đầu năm 1975 là 672.097 tấn. Để vận chuyển khối lượng hàng hóa trên cho các chiến trường, ngoài 6.670 ôtô vận tải chuyên trách của quân đội, Nhà nước còn huy động hơn 60% tổng số phương tiện vận tải của các bộ, ngành tham gia phục vụ chiến trường. Đặc biệt, hệ thống đường ống xuyên dọc chiều dài đất nước, từ Đồng Đăng (Lạng Sơn) đến Bù Gia Mập (Bình Phước) và nhiều trục ngang vào tận các chiến trường với độ dài hơn 5.000 km, với 316 trạm bơm hút và đẩy, đã vận chuyển khối lượng xăng dầu năm 1973-1974 đạt 303.000 tấn (gấp 2 đến 3 lần so với những năm 1965-1972)5.
Để có cơ sở thực tế khẳng định cho kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Trung ương Đảng đã triệu tập lãnh đạo, chỉ huy chủ chốt ở các chiến trường ra Hà Nội tham dự Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (18/12/1974 - 08/01/1975). Hội nghị thảo luận và xác định nhiệm vụ sắp tới là nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. 
Trong lúc Hội nghị đang họp, Quân giải phóng đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long, một tỉnh có vị trí chiến lược rất quan trọng, nằm ngay tại cửa ngõ Sài Gòn, nhưng Mỹ phản ứng rất yếu ớt. Đòn “trinh sát chiến lược” này thắng lợi đã khẳng định: Quân đội Sài Gòn không còn đủ sức chống đỡ trước sức tiến công của Quân giải phóng, Mỹ cũng không thể đưa quân đội can thiệp trở lại ở miền Nam Việt Nam. Đây thực sự là cơ sở vững chắc để Bộ Chính trị Trung ương Đảng thông qua quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, đồng thời dự kiến nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam vào năm 1975.
2. Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng, ngày 04/3/1975, Chiến dịch Tây Nguyên mở màn. Sau trận đánh “điểm huyệt” Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên, đã làm rung chuyển cục diện chiến trường, tạo thời cơ chiến lược để giải phóng hoàn toàn miền Nam. Ngày 25/3/1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp phiên đặc biệt, chủ trương tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí, kỹ thuật và vật chất, giải phóng miền Nam trước mùa mưa. 
Chỉ sau 4 ngày, từ ngày 26 đến 29/3/1975, hai thành phố, hai căn cứ quân sự trọng yếu của địch là Huế và Đà Nẵng được giải phóng. Chính quyền và quân đội Sài Gòn lâm vào tình thế vô cùng khốn quẫn. Ngày 07/4/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh ra mệnh lệnh cho các cánh quân: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”. Bức điện thảo bằng tay của Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã trở thành văn kiện lịch sử, là lời hịch cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ ngày đêm xốc tới giải phóng miền Nam, hoàn thành ước nguyện của cả dân tộc Việt Nam sau hơn 20 năm chiến đấu lâu dài, gian khổ.
Với khí thế “một ngày bằng 20 năm”, theo chỉ thị của Bộ Chính trị: “Nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm”6, ngày 08/4/1975, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, Đoàn A75 đã họp thông qua kế hoạch tác chiến giải phóng Sài Gòn - Gia Định và công bố quyết định thành lập Bộ Chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Hội nghị đã nhất trí đề nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng cho lấy tên gọi “Chiến dịch Hồ Chí Minh” thay cho tên gọi “Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn - Gia Định” và được Bộ Chính trị chấp thuận. Điều này không chỉ đáp ứng được ý nguyện, sự tôn kính của toàn dân tộc Việt Nam đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, suốt đời hy sinh vì dân, vì nước mà còn khẳng định ý chí, niềm tin chiến thắng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam vào chiến dịch lịch sử giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Sau khi đã hoàn thành công tác chuẩn bị và tập trung một khối lượng rất lớn lực lượng và phương tiện ở vùng kế cận Sài Gòn, chiều 26/4/1975, Quân giải phóng nổ súng mở màn chiến dịch. Từ năm hướng các quân đoàn chủ lực đồng loạt tiến công Sài Gòn. Từ ngày 26 đến 28/4/1975, Quân giải phóng chọc thủng tuyến phòng ngự vòng ngoài, đập tan sự kháng cự của các sư đoàn đối phương. Quân đội Sài Gòn bị rối loạn hoàn toàn về chiến lược.
Ngày 29/4/1975, Quân giải phóng tổng tiến công. Các binh đoàn chủ lực hợp thành tiến công trong hành tiến, tiêu diệt các cánh quân đối phương ngăn chặn và phản kích, nhằm thẳng các mục tiêu đã được phân công, trên tất cả các hướng, tạo thành thế hợp vây ngay từ đầu. Quân giải phóng vừa đánh địch phòng ngự vòng ngoài, vừa dùng các binh đoàn mạnh thọc thẳng vào chiều sâu và đầu não địch, đánh quỵ địch nhanh chóng. Lần đầu tiên Quân giải phóng sử dụng bộ đội tăng - thiết giáp tập trung ở quy mô binh đoàn (lữ đoàn), đảm nhiệm một hướng tiến công chủ yếu với tính chất là cụm cơ động thọc sâu phát huy được sức đột kích nhanh và tăng cường khả năng tác chiến trong hành tiến. 
9 giờ sáng ngày 30/4/1975, mũi thọc sâu của Quân đoàn 2 vượt qua cầu Sài Gòn, tiêu diệt ổ đề kháng của quân đội Sài Gòn tại Hàng Xanh, cầu Thị Nghè, tiến vào Dinh Độc Lập. Chiếc xe tăng 843 (Đại đội 4 Lữ đoàn xe tăng 203) đi đầu húc vào cổng phụ bên trái chết máy dừng lại, xe tăng 390 tiến lên húc đổ cổng chính tiến vào bên trong Dinh. Tiếp đó, đơn vị đi đầu của Trung đoàn bộ binh 66 (Quân đoàn 2) và một phân đội Biệt động (Sài Gòn - Gia Định) lần lượt tiến vào Dinh. Tổng thống chính quyền Sài Gòn Dương Văn Minh và nội các buộc phải đầu hàng Quân giải phóng vô điều kiện. 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, cờ Giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh của Nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi. Đất nước thống nhất, non sông thu về một mối. Hòa bình được lập lại sau nhiều năm chiến tranh ác liệt. Lịch sử Việt Nam hiện đại ghi nhận ngày 30/4 hằng năm là “Ngày thống nhất đất nước”.
3. Chiến thắng 30/4/1975 - Sự hội tụ ý chí, khát vọng thống nhất và sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam
Đại thắng mùa Xuân 1975 với sự kiện 30/4/1975 là một chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là chiến thắng của ý chí thống nhất và khát vọng hòa bình, độc lập, tự do và phẩm giá con người của dân tộc Việt Nam. Với mỗi người dân Việt Nam, ngày 30/4/1975 là một ngày lịch sử trọng đại. Đó là ngày đất nước sạch bóng quân xâm lược, hòa bình lập lại trên toàn đất nước Việt Nam. Đó là ngày đoàn tụ Nam - Bắc sau bao năm Tổ quốc bị chia cắt. Đó là ngày hòa hợp dân tộc, từng gia đình và cả dân tộc sum họp dưới mái nhà Việt Nam.
Ngày toàn thắng 30/4/1975 là một mốc son chói lọi, mang tầm vóc quốc tế và ý nghĩa thời đại to lớn. Chiến thắng đó đã mở ra kỷ nguyên mới đối với dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên hòa bình, độc lập, thống nhất và phát triển. Đó là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, đỉnh cao của khí phách và trí tuệ của con người Việt Nam. Suốt 30 năm kể từ ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, cả dân tộc Việt Nam đã kiên cường chiến đấu, hy sinh để đi tới thắng lợi trọn vẹn “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, “Bắc Nam sum họp”, “Non sông thống nhất”.
Chiến thắng 30/4/1975 là chiến thắng của truyền thống văn hóa dân tộc, của sự lãnh đạo tài tình, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam, đồng thời là kết quả của sự ủng hộ giúp đỡ chí tình của bạn bè quốc tế, của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là của Chính phủ và nhân dân Liên Xô, Trung Quốc, của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có nhân dân Mỹ. Vì Việt Nam, Chính phủ và nhân dân Liên Xô nói chung, nhân dân Nga nói riêng, đã hết lòng ủng hộ, giúp đỡ cuộc kháng chiến lâu dài, ác liệt của Nhân dân Việt Nam về mọi mặt. Đảng, Chính phủ và Nhân dân Việt Nam đời đời ghi nhớ và biết ơn sự giúp đỡ, ủng hộ chí tình, chí nghĩa đó.
Chiến thắng ngày 30/4/1975 là sự khẳng định với toàn thể thế giới: Dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đủ sức đánh bại bất kỳ kẻ thù xâm lược nào, dù giàu có và lớn mạnh đến đâu. Truyền thống đoàn kết dân tộc, khát vọng thống nhất Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền đất nước là một sức mạnh vô song có thể giúp một dân tộc nhỏ, với chính nghĩa trong tay làm nên những chiến công vĩ đại.
Chiến thắng 30/4/1975 là chiến thắng của toàn dân tộc, của đức hy sinh, lòng dũng cảm và trí tuệ Việt Nam kết tinh bởi mưu lược sáng suốt, tầm nhìn chiến lược của Đảng Cộng sản và ý chí anh hùng, bất khuất của Nhân dân Việt Nam. Với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và hành động muôn người như một, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, Việt Nam đã đánh thắng kẻ thù hung bạo nhất của thời đại. Dân tộc Việt Nam với chiến công của mình đã đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế giới chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chiến đấu cho quyền độc lập dân tộc, cho lương tri, phẩm giá con người. Chiến thắng 30/4/1975 không chỉ đem lại hòa bình, độc lập, thống nhất cho Việt Nam mà còn cổ vũ các dân tộc đấu tranh cho độc lập, tự do và công lý.
Sức mạnh Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết quả tổng hợp của sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Sức mạnh dân tộc được tạo ra bởi đại đoàn kết toàn dân tộc, được nuôi dưỡng bởi cội nguồn văn hóa Việt Nam, lịch sử đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc. Sức mạnh ấy được tiếp nối, phát huy cao độ và thăng hoa trong thời đại Hồ Chí Minh - thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam.
Chiến thắng lịch sử 30/4/1975 đã khẳng định một chân lý: Miền Nam là một bộ phận không thể tách rời của Việt Nam, là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam, “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”7. Quyền sống, quyền tự quyết dân tộc, quyền mưu cầu hạnh phúc là những quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Những hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền lãnh thổ, can thiệp, áp đặt, cường quyền… là trái đạo lý và pháp lý quốc tế. Ở đâu có những hành động ấy, ở đó tất yếu có sự đáp trả. Ở đâu có kẻ thù xâm lược Việt Nam, ở đó có người Việt Nam chống xâm lược. Đó là mệnh lệnh của lịch sử, của ý thức dân tộc và lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam.
45 năm đã trôi qua, kể từ ngày miền Nam Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, thời gian càng lùi xa, Chiến thắng 30/4/1975 của dân tộc Việt Nam càng nổi bật tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của nó. Các thế hệ người Việt Nam càng cảm nhận đầy đủ và sâu sắc hơn giá trị và bài học của chiến công vĩ đại này. Hơn bất cứ một dân tộc nào trên thế giới, Nhân dân Việt Nam luôn thiết tha với hòa bình, độc lập, tự do, không bao giờ mong muốn chiến tranh. Nhưng, vì sự tồn vong của quốc gia - dân tộc, vì nghĩa vụ quốc tế cao cả, mà Nhân dân Việt Nam, ở cả hai miền Nam - Bắc, buộc phải cầm súng chiến đấu. Có được hòa bình như ngày hôm nay, dân tộc Việt Nam đã phải trả bằng những hy sinh, tổn thất vô cùng to lớn. 
Chiến thắng 30/4/1975 là sự tôn vinh sức mạnh và niềm tự hào của mỗi người Việt Nam, của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Khẳng định, tôn vinh chiến thắng 30/4/1975 là để nhân lên lòng yêu nước và tự hào dân tộc. Chiến thắng 30/4/1975 là kết quả của biết bao hy sinh, mất mát của cả dân tộc, của các thế hệ người Việt Nam, của sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trên mỗi chặng đường của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tài thao lược của Đảng luôn là nhân tố quyết định thắng lợi. Nhờ đánh giá đúng tình hình, dự kiến đúng thời cơ, chủ động và kiên quyết hành động, Đảng đã huy động được sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại tạo nên thế và lực to lớn, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. 
Ngày nay, Việt Nam đã đi qua chặng đường đổi mới hơn 30 năm. Chiến thắng 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đã 45 năm. Trong bước đường sắp tới, Chiến thắng 30/4/1975 vẫn luôn là niềm tự hào, là động lực cho toàn dân tộc Việt Nam chung sức, chung lòng chống đói nghèo, lạc hậu, hướng tới xây dựng một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Chiến thắng 30/4/1975 sẽ mãi mãi tiếp thêm năng lượng, tinh thần, phát huy các giá trị sáng tạo, cổ vũ dân tộc Việt Nam vững bước tiến lên, phát triển bền vững và hiện đại hóa trong công cuộc đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế. ◈ 

Phạm Chí Thành

Quyền Giám đốc - Tổng Biên tập,

Chủ tịch Hội đồng Biên tập - Xuất bản

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật

                      (Theo trang Thông tin điện tử của Chính phủ Xanh Pê-téc-bua, Liên bang Nga)

Theo Tạp chí Nhịp cầu Tri thức

                                                                                                                      

1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, t. 34, tr. 231, 243, 237.

4, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, t. 35, tr. 185; t. 36, tr. 95-96.

5. Dẫn theo Tạp chí Lịch sử quân sự Việt Nam, số 01/1995.

7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 280.

Bình luận

Bài viết liên quan | Xem tất cả