Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và vấn đề xây dựng con người Việt Nam hiện nay

Ngày đăng: 28/01/2015 - 07:01

dichuccuachutichhocchiminh

"Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng"1. Đó là những dòng tình cảm bao la, rộng lớn và sâu lắng của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong Di chúc trước khi Người đi vào thế giới người hiền gặp cụ C. Mác, cụ V.I. Lênin.

Đọc Di chúc của Người, chúng ta càng thấm thía nhiều bài học lớn về lòng yêu nước, thương dân rộng lớn, về những phương hướng cho sự phát triển của toàn dân tộc, về văn hoá ứng xử tinh tế, trong đó quan tâm và xây dựng con người Việt Nam là mục tiêu cao cả nhất của Người. Giáo sư Trần Văn Giàu đã khẳng định: "Tầm cỡ của một hiền triết chưa chắc ở chỗ giải đáp mối tương quan giữa tồn tại và tư tưởng, ở chỗ xác định thế giới là thực tại hay ảo ảnh... mà chung quy là ở mức độ quan tâm đến con người, con người thật đang phải sống trên quả đất này... lấy đó làm trung tâm của mọi suy tư và chủ đích của mọi hành động. Cụ Hồ thuộc loại hiền triết đó; vì đó mà cụ lớn"2.

Vấn đề quan tâm nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là vấn đề con người và chiến lược xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu mới của thời đại, của dân tộc. Tư tưởng này được phản ánh sâu sắc trong Di chúc - một văn kiện lịch sử, chính trị đã đi vào hồn thiêng của dân tộc. Di chúc của Người, tuy không dài về câu chữ nhưng chở nặng tình người bao la, với rất nhiều dặn dò, định hướng... nhưng đều quy tụ và có tính hướng đích là vấn đề con người. Đó không chỉ phản ánh tình thương yêu bao la của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với con người mà quan trọng hơn, những định hướng ấy vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng con người Việt Nam mới hiện nay.

1. Đầu tiên là công việc đối với con người3

Con người và công việc đối với con người được coi là quốc sách đầu tiên trong tư tưởng phát triển của Chủ tịch Hồ Chí Minh và được Người căn dặn rõ ràng trong Di chúc. Thật ý nghĩa khi trong bản viết tay của mình, từ "con người" được Chủ tịch Hồ Chí Minh gạch chân bằng bút màu đỏ và đây cũng là vấn đề được Người viết rất dài trong Di chúc.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định mục tiêu cao cả nhất và thực tiễn nhất đo sự phát triển của mỗi quốc gia là làm cho người dân được cơm no, áo ấm, được hạnh phúc, được sống tự do, công bằng, dân chủ. Người nói "dân dĩ thực vi thiên"4. Vì vậy, "chính sách của Đảng và chính phủ là phải hết sức chăm lo đến đời sống của nhân dân"5, "... phải thi hành một nền chính trị liêm khiết như cải thiện đời sống của nhân dân, cứu tế thất nghiệp, sửa đổi chế độ xã hội, phát triển kinh tế, văn hoá... có như thế, dân chúng mới đoàn kết xung quanh chính phủ"6. Bài học vô giá này được Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng trên truyền thống yêu nước quý giá của dân tộc nhằm phát huy những giá trị nội sinh của con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ nước nhà.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành trọn cả đời phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng triệt để con người. Người có một ham muốn tột bậc "nước nhà được hoàn toàn độc lập, nhân dân được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được đến trường"7. Nhân cách con người mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hướng đến xây dựng là nhân cách người kách mệnh: "Cần kiệm. Hoà mà không tư... Vị công vong tư... Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh... Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể"8.

 2. Xây dựng Đảng và tư cách người cách mạng - tư tưởng quan trọng trong Di chúc

Trước hết nói về Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tinh thần đoàn kết. Muốn đoàn kết trong Đảng tốt, theo Người cần thực hiện hai nguyên tắc cơ bản và quan trọng là thực hiện dân chủ ở trong Đảng và thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình. "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.

Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng"9.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, muốn thực hiện dân chủ, tự phê bình và phê bình đạt hiệu quả cao thì "... phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau... Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư"10. Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà trong một đoạn văn thật ngắn (56 chữ), Người đã dùng đến bốn chữ "thật". Theo đồng chí Vũ Kỳ, Người đã suy ngẫm bốn chữ "thật" đó, chí ít trong 3 tháng kể từ buổi đến thăm đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn (15-02-1965), trước khi bắt tay viết Di chúc vào ngày 10-5-1965. "Bác đã viết 4 chữ "thật" cho lúc bấy giờ và cho cả mai sau, khi đất nước hết chiến tranh, bước vào xây dựng. Mà có lẽ chủ yếu là Bác viết cho mai sau.

Chắc là Bác muốn như thế"11.

3. "Không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân"12 - nhiệm vụ cơ bản của quá trình xây dựng con người

Trong Di chúc, Người căn dặn: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân"13.

Điều quan trọng và sâu lắng nhất trong Di chúc chính là vấn đề con người và bản chất sâu lắng nhất của vấn đề con người là không ngừng nâng cao dân trí, dân sinh và dân quyền. Con người mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến không phải là con người chung chung, trừu tượng mà là những con người cụ thể, với những chính sách cụ thể cho từng đối tượng, hoàn cảnh cụ thể. Năm 1968, Người đã viết những chỉ đạo cụ thể về chính sách đối với con người trong Di chúc:

"Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần "tự lực cánh sinh".

Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.

Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.

Những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra dũng cảm. Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ.

Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v., thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện"14.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ định hướng nhiệm vụ của Đảng và Chính phủ mà còn nêu rõ nhiệm vụ của từng giai cấp, giai tầng cụ thể trong sự nghiệp xây dựng con người chung. Bản thân mỗi người phải "tự lực cánh sinh", "phải cố gắng vươn lên" để gánh vác trọng trách được giao.

4. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm quan trọng và cần thiết

 Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết"15. Nhiệm vụ của Đảng và Chính phủ trong chiến lược xây dựng con người, trước hết là phải quan tâm và bồi dưỡng thế hệ thanh niên. Xây dựng họ thành những con người hội tụ đủ cả hai yếu tố đức và tài, hồngchuyên. Người nhấn mạnh: "Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên"16. Thế hệ trẻ chính là chủ nhân tương lai của đất nước, kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lúc sinh thời, Bác rất quan tâm và đòi hỏi Đoàn Thanh niên phải làm tròn nhiệm vụ là nơi đoàn kết, tập hợp thanh niên để giúp Đảng giáo dục họ thành những chủ nhân tương lai của đất nước. Bác khẳng định muốn củng cố và phát triển thì Đoàn Thanh niên phải liên hệ rộng rãi và chặt chẽ với các tầng lớp thanh niên, phải biết tổ chức các phong trào thi đua, tạo môi trường tốt nhất cho thanh niên cống hiến và hư­ởng thụ. Bác đòi hỏi Đoàn Thanh niên khi đề xuất một phong trào thi đua phải có định hướng đúng, có kế hoạch thực hiện cụ thể, có nội dung thi đua thiết thực, rõ ràng, có sự lãnh đạo, chỉ đạo theo dõi thư­ờng xuyên. Có làm như vậy phong trào của Đoàn mới thực sự phát triển, thực sự là cánh tay phải, đội hậu bị tin cậy của Đảng trong giáo dục và rèn luyện để hình thành nhân cách trong sáng cho thanh niên.

5. Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trong 40 năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam. Đảng và Nhà nước coi giáo dục là "quốc sách hàng đầu". Ngành giáo dục đã đề ra những nhiệm vụ trọng yếu, nền tảng của chương trình giáo dục là xây dựng các thế hệ con người Việt Nam có nhân cách, làm chủ về chuyên môn nghiệp vụ, khỏe mạnh về thể chất đáp ứng với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều đó sẽ tạo ra hệ điều chỉnh bên trong tự nguyện, tự giác; làm cho sự quan tâm của con người đối với những người khác cũng như đối với lợi ích xã hội trở thành nhu cầu và sự thôi thúc từ nội tâm. Đây là yếu tố kích thích tính tích cực trong mỗi con ngư­ời, hướng họ biết giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, góp phần khắc phục sự mất cân đối trong quá trình phát triển con người - xã hội dưới những tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hoá hiện nay.

Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn nhận thức đầy đủ và sâu sắc về tầm quan trọng của nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quan tâm, tạo điều kiện phát huy tối đa sức mạnh con người, tạo động lực để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, đặt mục tiêu giải phóng con người là sự nghiệp cao cả của Đảng. Những định hướng về phẩm chất, những chuẩn giá trị mới cho việc xây dựng con người Việt Nam được đề cập trong tất cả các văn kiện của Đảng, được phản ánh rõ nét trong việc Đảng ta luôn đẩy mạnh và đổi mới công tác giáo dục - đào tạo. Đây là điều kiện để hình thành và phát triển các thế hệ con người Việt Nam khoẻ mạnh về thể chất, có nhân cách tốt đẹp, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao để phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngay từ những ngày đầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định "con người là vốn quý nhất". Sinh thời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa"17.

Trước đổi mới, trong hoàn cảnh đất nước vừa được giải phóng, chúng ta bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh nền kinh tế đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề, trong xã hội tồn tại nhiều hủ tục, tệ nạn xã hội cần phải khắc phục, việc cải tạo nhân phẩm cho một bộ phận người sống dưới chế độ cũ diễn ra rất phức tạp... Trong hoàn cảnh đó, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm xây dựng những thế hệ con người Việt Nam có lý tưởng cách mạng vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; có ý thức rõ ràng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội... Những chuẩn giá trị mới này là động lực thúc đẩy con người Việt Nam chiến đấu, lao động, học tập tự giác, sáng tạo đem lại những thành tựu đáng tự hào trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta còn tồn tại những sai lầm như chủ quan duy ý chí, quản lý đất nước theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp - đây là môi trường tạo ra tính đặc quyền, đặc lợi cao cho những người quản lý, làm giảm tính chủ động sáng tạo của những người lao động... Lợi ích tập thể được đề cao, trong nhiều trường hợp rơi vào trừu tượng, mơ hồ. Lợi ích cá nhân hầu như không được quan tâm, mờ nhạt nên động lực hoạt động của mỗi người chưa cao.

Trong công cuộc đổi mới toàn diện, vấn đề con người luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Chúng ta hiểu rằng: đổi mới, trước hết phải bắt đầu từ việc đổi mới con người với tư cách là chủ thể hành động và đồng thời là khách thể tác động của sự nghiệp đổi mới. Từ thực tế của sự phát triển, sẽ không có sự đổi mới xã hội nào nếu không có sự đổi mới bắt đầu từ chính con người, chỉ có điều là cần phải có sự phù hợp giữa những thay đổi của hoàn cảnh và của con người, của thực tiễn cách mạng. Đổi mới bắt đầu từ con người nhưng không phải được xây dựng một cách chung chung, trừu tượng mà hướng vào con người cụ thể, phát triển nhân cách phong phú. Đây là nền tảng để xã hội phát triển, bởi mục đích phát triển của toàn xã hội nếu không chuyển thành những động cơ tư tưởng bên trong của các cá nhân thì không thể thực hiện được. Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội phải thông qua việc phát triển từng cá nhân với tư cách là chủ thể có ý thức. Thực tiễn chứng minh "không phải bộ máy, cũng không phải khâu nào khác trong hệ thống chính trị với tầm quan trọng của nó, mà chính là con người với những phẩm chất và năng lực nhất định quyết định sức mạnh của đổi mới"18.

Đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã khẳng định: "Chỉ có đổi mới thì mới thấy đúng và thấy hết sự thật, thấy những nhân tố mới để phát huy, những sai lầm để sửa chữa, nhằm vận dụng tốt chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh nước ta, phát huy truyền thống lịch sử và cách mạng của dân tộc, động viên tính năng động, sáng tạo và khả năng vô tận của nhân dân lao động..."19 và đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của "nhân tố con người" trong sự nghiệp đổi mới. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Đảng đã đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) khẳng định quan điểm lớn: "... quan điểm coi mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người, trước hết là người lao động. Đó cũng là quan điểm về sự thống nhất giữa mục tiêu của chính sách kinh tế và chính sách xã hội - tất cả vì con người"20. "Mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có trí thức, có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội"21.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996), đã khẳng định: "... lấy việc phát huy con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích luỹ cho đầu tư và phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường"22. Khẳng định này, lại được Đảng ta nhấn mạnh lại lần nữa tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (năm 2001): "... nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững". "Mọi hoạt động văn hoá nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội"23. Những phẩm chất trên tiếp tục được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (năm 2006) nhấn mạnh vừa là sự tiếp nối các giá trị truyền thống tốt đẹp và bền vững, vừa là những đòi hỏi mới đối với con người Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Đây là những chủ trương đúng đắn và thiết thực của Đảng, Nhà nước, Chính phủ trong việc thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chung và thực hiện vấn đề xây dựng con người nói riêng.

Trích trong “Phát triển văn hóa và con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh”,

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, 2010.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 12, tr. 500.

2. GS. Trần Văn Giàu: "Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - đạo đức và cội nguồn", trong sách: Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr. 237.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 503.

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 572.

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 203.

6, 7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 227, 161.

8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 260.

9, 10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 510.

11. 35 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 126.

12, 13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 511.

14, 15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 503-504, 498.

16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 185.

17. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 448.

18. Vũ Thiện Vương: Triết học Mác - Lênin về con người và việc xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 144.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 342.

20, 21. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 51, tr. 143.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 85.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 114.


 

Bình luận