Huỳnh Văn Nghệ: một chiến sĩ - nhà thơ “thi tướng”

Ngày đăng: 01/02/2014 - 09:02

Huỳnh Văn Nghệ không chỉ là một nhà chỉ huy quân sự tài năng, kiên cường với cuộc đời hoạt động cách mạng oanh liệt, vẻ vang mà còn là một cây bút tràn đầy nhiệt huyết trong các hoạt động báo chí, văn hóa, văn nghệ, đặc biệt là ở lĩnh vực thơ ca, ông được mệnh danh là “Thi tướng rừng xanh”. Qua các tác phẩm của ông, người đọc được hiểu thêm về quê hương, gia đình, cuộc đời binh nghiệp, văn nghiệp của ông, về cuộc chiến đấu gian khổ, trường kỳ, oanh liệt của nhân dân miền Đông Nam Bộ.

Một cuộc đời oanh liệt

Huỳnh Văn Nghệ sinh ngày 2-2-1914, tại làng Tân Tịch, tổng Chánh Mỹ Hạ, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc xã Thường Tân, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Ông là con thứ 7 trong gia đình. Tuy nhà nghèo, nhưng ông vẫn được gia đình lo cho ăn học đến nơi đến chốn, được cha dạy dỗ về căn bản cả văn lẫn võ. Là người thông minh học giỏi nên Huỳnh Văn Nghệ được nhận học bổng tại trường Trung học Pétrus Ký Sài Gòn (nay là trường THPT Lê Hồng Phong) và sớm giác ngộ, tham gia các hoạt động cách mạng.

Tu trai qua cac dong chi Huynh Van Nghe Le Duan Nguyen Binh Duong Quoc Chinh o Chien khu D

Từ trái qua: Ông Huỳnh Văn Nghệ, ông Lê Duẩn, Trung tướng Nguyễn Bình

và ông Dương Quốc Chính ở Chiến khu Đ

Ngay từ năm 18 tuổi, Huỳnh Văn Nghệ đã luôn tìm cách giúp đỡ, bênh vực người nghèo, tham gia các hoạt động chống giặc Pháp xâm lược và bọn tay sai. Huỳnh Văn Nghệ đã được tuyên truyền về Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi giác ngộ và tham gia vào các hoạt động do Đảng lãnh đạo. Những năm 1936-1939, ông tham gia phong trào Đông Dương Đại hội ở Sở Xe lửa Sài Gòn. Năm 1940, tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ. Cuộc khởi nghĩa thất bại, giặc Pháp điên cuồng đàn áp những người cộng sản, một số phải rút về rừng Tân Uyên hoạt động, ông được giao nhiệm vụ tiếp tế đạn dược, thuốc men cho số đồng chí này.

Năm 1942, sau khi bị bọn thực dân, tay sai phát hiện, Huỳnh Văn Nghệ phải trốn sang Thái Lan và hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước. Tại đây, ông tổ chức xuất bản tờ báo Hồn cố hương, kêu gọi kiều bào hướng về Tổ quốc, ủng hộ cách mạng. Năm 1944, Huỳnh Văn Nghệ về nước, bắt liên lạc với cách mạng và được đồng chí Trần Văn Giàu, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ phân công lập căn cứ Đất Cuốc tại Tân Uyên, Biên Hòa. Trong thời gian này ông được kết nạp Đảng, lập Đoàn Cựu binh sĩ và tham gia Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, trực tiếp tham gia chỉ huy giành chính quyền ở Biên Hòa. Tại đây, Huỳnh Văn Nghệ tổ chức xây dựng giải phóng quân Biên Hòa và trực tiếp làm chỉ huy trưởng. Căn cứ Tân Uyên được ông bố trí phòng ngự vững chắc, đã đảm nhiệm vai trò bảo đảm hậu cần cho lực lượng vũ trang của tỉnh và các tỉnh bạn theo lệnh của Khu trưởng Nguyễn Bình, đồng thời làm nhiệm vụ bảo vệ Khu bộ, tích cực tham gia xây dựng các cơ quan quân, dân, chính của tỉnh... Dưới sự chỉ huy của Huỳnh Văn Nghệ, không bao lâu sau, Tân Uyên trở thành một trong những căn cứ kháng chiến vững mạnh nhất ở Nam Bộ.

Tháng 3-1948, Huỳnh Văn Nghệ nhận nhiệm vụ làm Khu bộ phó Khu 7, kiêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 310. Ngày 1-3-1948, với cương vị chỉ huy trưởng, ông tham gia trận La Ngà - trận giao thông chiến lớn nhất ở Nam Bộ kể từ ngày thực dân Pháp tái chiếm nước ta. Sau trận này, Trung đoàn 310 được Bác Hồ khen thưởng Huân chương Chiến công hạng Hai, Trung đoàn trưởng Huỳnh Văn Nghệ được Bác Hồ tặng thưởng một chiếc áo trấn thủ. Tháng 7-1948, thi hành lệnh của Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ, trong hoàn cảnh hết sức nguy hiểm, Huỳnh Văn Nghệ một mình đến căn cứ Bình Xuyên, dùng lý lẽ và tình cảm thuyết phục được thủ lĩnh Bình Xuyên lúc bấy giờ là Lê Văn Viễn (Bảy Viễn) về dự hội nghị, giúp Xứ ủy và Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ giải quyết được “vấn đề Bình Xuyên”, rất gay go lúc bấy giờ.

Cùng thời gian này, Huỳnh Văn Nghệ được bổ nhiệm làm Khu trưởng Khu 7. Trên cương vị mới, ông đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc xây dựng căn cứ mới của Khu, thành lập bộ đội chủ lực Khu 7 (Bộ đội 303). Đặc biệt, ông nghiên cứu, tìm ra cách đánh tháp canh, giải quyết được sự bế tắc về chiến thuật ở Khu 7 lúc bấy giờ.

Năm 1950, sau khi sáp nhập Sài Gòn - Chợ Lớn vào Khu 7, Huỳnh Văn Nghệ giữ chức Phó Tư lệnh Khu 7. Năm 1951, khi hai tỉnh Thủ Dầu Một - Biên Hòa sáp nhập, ông là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, kiêm Tỉnh đội trưởng Thủ Biên, chỉ huy nhiều trận đánh lớn bảo vệ Bộ Tư lệnh Nam Bộ đóng ở Chiến khu Đ. Năm 1952, trong trận lụt “thế kỷ”, ông xông pha chỉ huy chống lụt ở Thủ Biên, bảo vệ được bộ đội và nhân dân.

Sau thảm họa thiên tai đó, lợi dụng tình thế khó khăn của quân và dân ta, địch huy động 11 tiểu đoàn tiến công vào Chiến khu Đ. Lực lượng của tỉnh chỉ có một tiểu đoàn nhưng dưới sự chỉ huy tài tình của Huỳnh Văn Nghệ, đã anh dũng chiến đấu suốt 52 ngày đêm, tiêu diệt gần một tiểu đoàn địch, phá tan âm mưu gom dân của địch nhằm tiêu diệt lực lượng ta.

Tháng 5-1953, Huỳnh Văn Nghệ được cử ra miền Bắc học và ở lại công tác gần 12 năm, trải qua các chức vụ: Trưởng phòng Thể dục thể thao, Cục phó Cục Quân huấn, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục phó Tổng cục Lâm nghiệp. Năm 1965, Huỳnh Văn Nghệ được điều động trở về Nam Bộ, lần lượt giữ các chức vụ: Trưởng ban căn cứ Trung ương Cục miền Nam, Phó Bí thư Đảng ủy căn cứ Trung ương Cục miền Nam, Phó ban Kinh tài Trung ương Cục miền Nam, Trưởng ban Lâm nghiệp Trung ương Cục miền Nam.

Sau khi đất nước thống nhất, Huỳnh Văn Nghệ là Thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp (về sau hợp nhất vào Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn).

Thi tướng rừng xanh

Nói đến Chiến khu Đ, ít ai có thể quên một cái tên: Huỳnh Văn Nghệ. Tên tuổi của ông đi vào tâm thức mọi người như một cán bộ quân sự tài năng, một ngọn cờ của các đơn vị vũ trang nhỏ lẻ thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, người gắn bó với quá trình gây dựng và phát triển Chiến khu Đ, một nhà thơ chiến sĩ đầy nhiệt huyết...

Huỳnh Văn Nghệ đánh giặc bằng cả gươm và bút. Đồng đội và nhân dân miền Nam gọi ông là “Thi tướng rừng xanh”. Làm thơ để đánh giặc, động viên những người ra trận, vì thế mà các bài thơ của Huỳnh Văn Nghệ đều phản ánh hiện thực cuộc chiến đấu gian khổ, oanh liệt ở chiến khu. Một chiều tiêu thổ, một trận công đồn, một trận bão lụt, một chiến sĩ hy sinh... tất cả ùa vào thơ ông, mang nguyên những bụi bặm chiến trường, nhiều khi như một phóng sự, ghi chép sự kiện.

Thi tuong Huynh Van Nghe o Chien khu Đ

Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ ở chiến khu Đ

Ở Huỳnh Văn Nghệ, nhiệm vụ chiến sĩ và sứ mệnh thi sĩ đã hòa quyện với nhau, như chính lời ông viết: “Tôi là người lăn lóc giữa đường trần/ Không phân biệt lúc mài gươm múa bút/ Đời chiến sĩ máu hòa lệ, mực/ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi/ Suốt một đời gươm chẳng ráo mồ hôi/ Thì không lẽ bút phải chờ kiếp khác/ Trên lưng ngựa múa gươm và ca hát/ Lòng ta say chiến trận đến thành thơ…”.

Thơ Huỳnh Văn Nghệ dường như chỉ nói về Chiến khu Đ, nếu đem sắp chúng theo trật tự biên niên, ta sẽ có gần đủ một cuốn lịch sử Chiến khu Đ bằng thơ. Qua thơ của ông, người đọc sẽ trả lời được câu hỏi: Chiến khu Đ ra đời trước hay sau ngày Nam Bộ kháng chiến, điều mà rất nhiều người còn thắc mắc: “Chiến khu Đ có từ thuở ấy/ Có một anh đồng chí/ Sau Nam Kỳ khởi nghĩa năm bốn mươi/ Đưa chi bộ về rừng Đồng Nai/ Lập chiến khu nuôi chí lớn” (Du kích Đồng Nai).

Thơ Huỳnh Văn Nghệ nói nhiều đến tình cảm giữa chiến khu với đồng bào nơi bị chiếm; đến các trận đánh Trảng Bom, Bưng Còng, Bảo Chánh, La Ngà; đến tinh thần chiến đấu hy sinh của bộ đội, dân quân du kích, của em bé liên lạc xóm Cây Dâu, đến cái chết của đại biểu Quốc hội khóa I Nguyễn Văn Xiển... Nhưng có lẽ, các nhân chứng lịch sử nhớ nhiều nhất bài thơ của ông nói về trận bão lụt lịch sử năm Nhâm Thìn 1952 và trận thắng lớn của Tiểu đoàn 303 Thủ Biên ngay trong những ngày “Trút cả hũ không còn đầy nắm muối”. Chính Thượng tướng Trần Văn Trà, vị Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam đã chép lại và cho công bố bài thơ Chiến khu Đ chống bão của Huỳnh Văn Nghệ trước cả khi Ty Văn hóa - Thông tin Sông Bé ấn hành tập Bên dòng sông xanh năm 1982: “Những nóc nhà trôi/ Những thân cây đổ/ Suối ngập thành sông, sông tràn thành biển/ Mênh mông sóng vỗ chân trời/ Thôi hết rồi hết lúa hết khoai/ Chiến khu Đồng Nai lại đói.../ Cả chiến khu đêm nay không ngủ/ Tụ năm tụ ba/ Bàn tán về Tiểu đoàn ba trăm lẻ ba.../ Bỗng được tin loa/ Ta tiêu diệt hoàn toàn đồn Bến Sắn”.

Sau Hiệp định Giơnevơ, Huỳnh Văn Nghệ tập kết ra Bắc. Cả khi ở Hà Nội và sau này, lúc đất nước đã hoàn toàn thống nhất, Huỳnh Văn Nghệ ít làm thơ; và thơ ông, nếu có, lại chỉ quay về... Chiến khu Đ. Đó là những vần thơ da diết nhớ một thời kháng chiến bất khuất, hoặc xót xa với cảnh rừng bị địch tàn phá đến hoang trụi: “Đất rừng còn nhức nhối/ Hố bom khoét thân mình/ Cây dầu còn rỉ máu/ Vết đạn vẫn chưa lành.../ Dân mình còn gian khổ/ Hòa bình chưa ăn mừng/ Lo thiếu gạo thiếu gỗ/ Nhưng phải bảo vệ rừng/ Ngày mai rừng tươi lại/ Cho người đỡ nắng mưa/ Thêm lúa thơm gỗ quý/ Suối trong veo bốn mùa” (Cây thông già và anh thợ rừng).

Nếu ai đó định lại một vườn thơ kháng chiến ở Nam Bộ thì chắc chắn thơ Huỳnh Văn Nghệ là một đóng góp. Thơ của ông giản dị mà gần gũi, đầy cảm hứng mà sâu sắc, hồn nhiên mà xúc động. Bài thơ Nhớ Bắc của ông là một ví dụ: “Ai về Bắc, ta đi với/ Thăm lại non sông giống Lạc Hồng/ Từ độ mang gươm đi mở cõi/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long…/Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên/ Chinh Nam say bước quá xa miền/ Kinh đô nhớ lại xa muôn dặm!/ Muốn trở về quê, mơ cánh tiên/ Ai đi về Bắc xin thăm hỏi/ Hồn cũ anh hùng đất Cổ Loa/ Hoàn Kiếm hồn xưa Linh Quy hỡi/ Bao giờ mang kiếm trả dân ta?”.

Huynh Van Nghe va bai tho Nho Bac

Hai câu thơ “Từ độ mang gươm đi mở cõi/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long” thể hiện hào khí thiêng liêng của dân tộc. Hào khí Nam Bộ xuất phát từ hào khí Thăng Long nghìn năm. Theo Huỳnh  Văn Nam - con trai của Huỳnh Văn Nghệ: “Viết được những câu thơ ấy bởi trong con người ba tôi, tình yêu lớn nhất là tình yêu đối với quê hương đất nước. Ông dung hòa được phong cách, nét văn hóa, phong tục tập quán của cả hai miền Nam - Bắc trong cuộc sống. Những năm tháng sống và làm việc ở miền Bắc, ba tôi luôn nhớ về miền Nam. Nguyện vọng lớn nhất của ông là được trở vào Nam tiếp tục chiến đấu. Sau này khi trở vào Nam, kỷ vật ông mang theo là chiếc điếu cày. Ông rít thuốc lào như một lão nông thực thụ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Chính sự hòa đồng, tình nghĩa ấy đã giúp ông có khả năng cảm hóa con người... Hai từ “Trời Nam” dùng ở đây ý nghĩa rộng hơn, đó không phải là sự bó hẹp về không gian mà là một sự khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của người Nam đã được “thiên định” như ông cha ta từng khẳng định trong Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo hay Nam quốc sơn hà. “Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long” - đó là tâm hồn, tư tưởng của người Việt tự ngàn đời hướng về gốc gác giống nòi... Hồn thơ thức tỉnh những mơ hồ về Tổ quốc”.

Như một sự tri ân với chiến sĩ - nhà thơ “thi tướng”

Huỳnh Văn Nghệ mất tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 1977, thọ 63 tuổi và được an táng tại quê nhà. 37 năm đã trôi qua đủ để người ta quên đi nhiều thứ, nhưng với những đồng chí, đồng đội của Huỳnh Văn Nghệ (anh Tám Nghệ) ngày xưa thì hình như không bao giờ thay đổi. Năm 2012, trong dịp kỷ niệm 35 năm ngày mất của ông, thắp nén nhang tưởng nhớ, những đồng chí, đồng đội đã cùng nhau kể về huyền thoại, huyền tích của ông. Những câu chuyện mà có lẽ với họ không bao giờ quên và không ai thay thế được.

Den tho va mo phan thi tuong Huynh Van Nghe tai que nha tinh Binh Duong

Đền thờ và mộ phần Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ tại quê nhà tỉnh Bình Dương

Bà Nguyễn Thị Minh Tâm, Phó Trưởng ban Liên lạc truyền thống kháng chiến Thủ Biên xúc động nói: “Tôi biết anh Tám Nghệ khi tôi mới là cô bé 14 tuổi. Với tôi, anh Tám Nghệ không chỉ là một tướng tài, lỗi lạc; anh luôn là một người anh, một người hết lòng thương yêu, bao bọc đàn em. Có lẽ vì tình cảm đó mà tôi ngày càng trưởng thành, giữ vững niềm tin, cống hiến hết mình cho cách mạng”.

Còn với ông Trương Nam Sơn, Trưởng ban Liên lạc Tiểu đoàn 303 thì luôn giữ cho riêng mình kỷ niệm giữa ông và anh Tám Nghệ. Ông nói: “Nếu tính thời gian làm việc trực tiếp thì tôi làm lính cho anh Tám Nghệ khoảng 1 năm. Khi đó, tôi bao sô hết công việc phục vụ cho anh Tám Nghệ, từ công tác chuyên môn đến tạp vụ. Nói thật, nếu chỉ là quan hệ giữa thủ trưởng và lính thì tôi không phục vụ tận tình anh Tám Nghệ đến như vậy. Anh xem tôi như em út, ngược lại với tôi, anh như anh cả. Chúng tôi có khi chia nhau chén cơm, nằm chung 1 chiếc giường và đắp chung 1 cái chăn... Vì vậy dù thời gian có qua đi thì tình cảm tôi dành cho anh Tám Nghệ không có gì thay đổi”.

Mặc dù chỉ biết đến Huỳnh Văn Nghệ qua lời kể, sử sách và những tư liệu, hiện vật còn lại, thế hệ trẻ ngày nay cũng hết lòng kính trọng, tự hào, nhất là những ai may mắn sinh ra và lớn lên ở mảnh đất Chiến khu Đ anh hùng, cũng như được học ở ngôi trường mang tên của vị tướng tài này. Em Lâm Trần Lệ Quyên, học sinh trường Huỳnh Văn Nghệ, huyện Trảng Bom, Đồng Nai tự hào nói: “Em rất tự hào khi được học dưới mái trường mang tên một vị tướng tài cả trong quân sự lẫn thơ ca. Vì vậy, bản thân em phải cố gắng học giỏi để xứng đáng là học sinh của ngôi trường thân yêu này”...

Huỳnh Văn Nghệ trở thành đề tài sáng tác của văn học, nghệ thuật và nghiên cứu của lịch sử, văn hóa. Cuộc đời ông như một huyền thoại, gắn liền với những trang sử vẻ vang của Chiến khu Đ trong kháng chiến chống Pháp. Ở ông hội tụ đủ mọi nhân tố của một người yêu nước, một nhà chỉ huy quân sự tài ba, một nhà thơ được nhân dân tôn vinh gọi là “Thi tướng”. Có gần 50 bài thơ của Huỳnh Văn Nghệ đã được chọn in trong cuốn Thơ văn Huỳnh Văn Nghệ, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1998. Ngoài ra, ông còn viết truyện ký, tự truyện được tập hợp trong hai tập sách Quê hương rừng thẳm sông dàiNhững ngày sóng gió... Tháng 12-2006, các tập thơ Chiến khu xanh, Bên bờ sông xanh, Rừng thẳm sông dài của Huỳnh Văn Nghệ được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học - nghệ thuật. Đầu năm 2007, tỉnh Bình Dương phối hợp với tỉnh Đồng Nai và Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học “Huỳnh Văn Nghệ - Cuộc đời và sự nghiệp” tại Nhà Lưu niệm Huỳnh Văn Nghệ, thuộc xã Thường Tân, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Ngày 17-4-2010, Huỳnh Văn Nghệ được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Tại thị xã Thủ Dầu Một, có một con đường mang tên Huỳnh Văn Nghệ. Và cũng để tưởng nhớ công lao của một vị tướng - một nhà thơ, ở thành phố Biên Hòa cũng có con đường mang tên ông, tỉnh Bình Dương đã quyết định thành lập Giải thưởng Văn học nghệ thuật Huỳnh Văn Nghệ của tỉnh Bình Dương. Tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng có con đường mang tên Huỳnh Văn Nghệ ở quận Tân Bình, quận Gò Vấp.

Tuổi đời “thi tướng” Huỳnh Văn Nghệ chỉ có 63 nhưng tuổi thọ câu thơ tuyệt bút “Từ thuở mang gươm đi mở cõi/ TrờiNamthương nhớ đất Thăng Long” của ông thì trường tồn sống mãi với thời gian. Cuộc đời ông được Hãng làm phim TFS dựng thành phim truyền hình 37 tập Vó ngựa trời Nam, do Nghệ sĩ ưu tú Lê Cung Bắc làm đạo diễn và diễn viên Huỳnh Đông thủ vai Huỳnh Văn Nghệ. Phim được dàn dựng từ năm 2007 và công chiếu vào tháng 3-2010. Phim đoạt giải Vàng duy nhất thuộc về thể loại phim truyền hình dài tập tại Liên hoan Truyền hình toàn quốc lần thứ 30, tổ chức ở Cần Thơ tháng 12-2010.

Nguyễn Huy Hùng

Học viện Quân y

 

 

 

 

 

Bình luận