Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam có vai trò quan trọng. Giai cấp công nhân là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công đoàn đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động; động viên họ thi đua yêu nước, thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn là nhiệm vụ trọng yếu và cấp thiết.
Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam
Trong quan hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn, Đảng giữ vai trò lãnh đạo. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể thực sự của quyền lực nhà nước, tham gia tổ chức và quản lý xã hội, cũng như quyết định nội dung hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn biểu hiện tập trung nhất là lãnh đạo về chính trị và tư tưởng, nhằm làm cho giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn thực hiện đúng nhiệm vụ, chức năng và vai trò của mình theo quy định của pháp luật, điều lệ, mục đích, tôn chỉ của công đoàn và vai trò, sứ mệnh của giai cấp công nhân.
Nội dung lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong cương lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm tính định hướng chính trị cho sự phát triển đất nước, tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền là hệ thống những phương pháp, hình thức, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác mà Đảng vận dụng để tác động vào giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn, nhằm biến đường lối, chủ trương của Đảng thành nhận thức và hành động của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn, qua đó thực hiện được các nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra.
Nội dung cơ bản phương thức lãnh đạo của Đảng gồm: Đảng hoạch định Cương lĩnh, đường lối chiến lược, định hướng về chính sách và chủ trương đối với giai cấp công nhân và hoạt động công đoàn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra của các cấp ủy đảng và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cấp công đoàn.
Đảng lãnh đạo công đoàn, thông qua tổ chức công đoàn để giữ mối liên hệ mật thiết với giai cấp công nhân, chịu sự giám sát của công nhân, viên chức, lao động (CNVCLĐ). Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng không chỉ thông qua các quyết định, các chỉ thị mà còn bằng uy tín, khả năng thuyết phục trong lời nói, trong hành động, trong phương pháp công tác của các tổ chức đảng và phong cách của từng cán bộ lãnh đạo, đảng viên.
Phương thức lãnh đạo của Đảng có sự đổi mới để phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng luôn là một yêu cầu có tính khách quan, một nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.
Trong quá trình đổi mới, Đảng có nhiều nghị quyết về xây dựng giai cấp công nhân, thể hiện trong các nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và một số nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng; thể hiện đầy đủ, rõ ràng, sát thực nhất trong những năm gần đây là Nghị quyết số 20/NQ-TW, ngày 28-01-2008, về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và Kết luận số 79/KL-TW của Bộ Chính trị, ngày 25-12-2013, về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 20/NQ-TW.
Nghị quyết số 20/NQ-TW của Đảng xác định nội dung, giải pháp xây dựng giai cấp công nhân và những nhiệm vụ vừa quan trọng vừa cấp bách của Đảng là, chăm lo xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo hoàn thành sứ mệnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Công đoàn vận động CNVCLĐ phát triển sản xuất, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, các kế hoạch của Nhà nước. Công đoàn lãnh đạo CNVCLĐ hiểu rõ vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình để phát huy bản chất truyền thống cách mạng của giai cấp công nhân. Đảng giao trọng trách cho công đoàn vận động CNVCLĐ thi đua lao động sản xuất, giáo dục, giác ngộ công nhân, chăm lo trực tiếp đến đời sống vật chất và tinh thần của công nhân, nâng cao năng lực làm chủ, bồi dưỡng bản lĩnh cho CNVCLĐ.
Đảng xác định rõ trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là phải tham gia hoạt động và xây dựng tổ chức công đoàn. Các cấp ủy đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết với công nhân, tăng cường lãnh đạo công tác công vận và hoạt động của công đoàn; thông qua công đoàn để tập hợp, đoàn kết đông đảo CNVCLĐ; động viên, tổ chức cho CNVCLĐ thực hiện đường lối của Đảng về xây dựng giai cấp công nhân; phát huy mạnh mẽ vai trò của công đoàn để tiến hành tốt các mặt công tác của Đảng trong CNVCLĐ; làm đúng và thực hiện đầy đủ các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về đẩy mạnh công tác vận động CNVCLĐ và hoạt động công đoàn.
Vai trò của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Trong lịch sử cách mạng nước ta, công đoàn đã có đóng góp to lớn trong việc động viên, tập hợp công nhân, lao động tham gia các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, đấu tranh thống nhất đất nước. Tổ chức công đoàn có vai trò rất quan trọng trong sự ra đời và lớn mạnh Nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam. Điều đó được khẳng định tại Điều 10, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: “Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(1).
Trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, công đoàn vận động CNVCLĐ thực hiện các nhiệm vụ chính trị, các chính sách, mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng, các kế hoạch của Nhà nước. Công đoàn vận động, giáo dục, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt của công nhân; làm cho công nhân hiểu rõ vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình, xác định ý thức trách nhiệm, phát huy bản chất truyền thống cách mạng của giai cấp công nhân. Công đoàn vận động công nhân thi đua lao động sản xuất, giáo dục, giác ngộ, chăm lo trực tiếp đời sống vật chất và tinh thần của công nhân, nâng cao năng lực làm chủ, bồi dưỡng bản lĩnh cách mạng cho công nhân.
Công đoàn hướng dẫn, vận động CNVCLĐ tham gia quản lý sản xuất, quản lý xã hội. Hoạt động công đoàn có tác động tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện đường lối, chiến lược của Đảng, xây dựng và phát triển đất nước.
Công đoàn đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; góp phần phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm của đoàn viên, CNVCLĐ, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối quan hệ giữa giai cấp công nhân với Đảng. Các cấp công đoàn tuyên truyền, vận động CNVCLĐ thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, thực hiện vai trò giám sát của CNVCLĐ và giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lao động. Công đoàn có nhiệm vụ giáo dục chính trị, tư tưởng; động viên và phát huy tính tích cực xã hội của CNVCLĐ; góp phần thúc đẩy quá trình dân chủ hóa và đổi mới xã hội; thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển Đảng ở địa phương, cơ sở, doanh nghiệp, có thể nêu những nhiệm vụ cụ thể của công đoàn là: tham gia tích cực vào cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh; thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, những hành động sai trái; bảo vệ lợi ích thiết thực, hợp pháp và chính đáng của CNVCLĐ. Công đoàn cơ sở được tham gia thực hiện Pháp lệnh về dân chủ ở xã, phường, thị trấn; động viên CNVCLĐ hăng hái đi đầu trong mọi lĩnh vực học tập và công tác; học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; phối hợp tham gia hoạt động trong phong trào do các tổ chức chính trị - xã hội phát động. Công đoàn tổ chức, giáo dục công nhân tham gia xây dựng Đảng, giới thiệu nhiều đoàn viên công đoàn ưu tú để Đảng xem xét, kết nạp.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn trong điều kiện mới
Hiện nay, số lượng công nhân đang tăng nhanh và có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ở các vùng, các địa bàn của đất nước. Giai cấp công nhân đang đi đầu trong quá trình đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội. Trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp của công nhân đã được nâng lên một bước. Kỷ luật lao động và tác phong công nghiệp đã có chuyển biến tích cực. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đã xuất hiện đội ngũ công nhân có trình độ cao. Hiểu biết của một bộ phận công nhân về kinh tế thị trường, về luật pháp, chính sách xã hội được nâng lên. Tâm lý ỷ lại, thiếu chủ động, thiếu sáng tạo của công nhân được khắc phục một bước. Những chuyển biến tích cực đó khẳng định vai trò tiền phong, nòng cốt của giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo cơ sở cho thắng lợi của công cuộc đổi mới, thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, do hậu quả của cuộc chiến tranh giữ nước lâu dài, cộng với những khó khăn, thách thức của phát triển kinh tế - xã hội trong nước, giai cấp công nhân Việt Nam có một số yếu kém cần khắc phục. Đó là, hiểu biết của CNVCLĐ về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về đường lối của Đảng còn nhiều hạn chế. Một bộ phận CNVCLĐ chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình; ý thức pháp luật chưa đầy đủ, chưa hiểu hết các quyền lợi, nghĩa vụ mà pháp luật quy định; ý thức tổ chức kỷ luật, trình độ văn hóa, văn minh công nghiệp còn yếu. Công nhân lao động trẻ thiếu ý chí vươn lên, ngại tham gia các sinh hoạt đoàn thể, nhất là ở các doanh nghiệp có vốn ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Liên minh công nhân - nông dân - trí thức chưa được củng cố vững chắc. Trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp của công nhân nhìn chung còn thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; có sự chênh lệch về trình độ và nhận thức giữa công nhân ở những thành phố lớn với các tỉnh vùng sâu, vùng xa; giữa các ngành công nghiệp mũi nhọn với các ngành khác. Khoảng cách giàu - nghèo trong CNVCLĐ có xu hướng ngày càng tăng, giữa bộ phận có tay nghề cao, với bộ phận tay nghề thấp. Điều này ảnh hưởng không tốt đến niềm tin của một bộ phận công nhân với Đảng. Bởi vậy, xây dựng giai cấp công nhân là nhiệm vụ vừa lâu dài vừa cấp bách của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Để giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam thực hiện tốt vai trò của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trước mắt cần thực hiện các biện pháp sau:
Một là, Đảng cần quan tâm, lãnh đạo sâu sát công tác công vận; cử những cán bộ có uy tín, có năng lực, phẩm chất tốt phụ trách công tác công vận, hoạt động trong phong trào công nhân và trực tiếp lãnh đạo công đoàn; coi phong trào công nhân, công đoàn là nơi rèn luyện cán bộ của Đảng và yêu cầu các đảng viên tích cực tham gia hoạt động công đoàn; tăng cường giác ngộ, bồi dưỡng, kết nạp nhiều công nhân vào Đảng; bồi dưỡng nhiều cán bộ công đoàn trẻ để bổ sung vào hàng ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước.
Hai là, Đảng chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 20/NQ - TW; lãnh đạo Nhà nước chăm lo xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam lớn mạnh trên cơ sở tập trung đầu tư thích đáng cả về vật chất, tinh thần, gắn các vấn đề phát triển kinh tế với giải quyết những vấn đề bức xúc, cấp bách đối với CNVCLĐ. Nghiên cứu xây dựng chương trình giáo dục lý luận chính trị dành riêng cho công nhân ưu tú và chính sách sử dụng những công nhân trẻ, có năng lực chính trị, đạo đức tốt.
Ba là, lãnh đạo thực hiện tốt chính sách đào tạo, đào tạo lại công nhân, nhằm làm cho giai cấp công nhân lớn mạnh cả về tổ chức và trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề, đáp ứng được các yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Lãnh đạo hoàn thiện chính sách tiền lương, quan tâm lãnh đạo hoàn thiện chính sách nhà ở cho người lao động có thu nhập thấp, đặc biệt là ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Chỉ đạo nghiên cứu, dự báo cuộc sống của công nhân ở các khu công nghiệp sau khi không còn khả năng làm việc.
Bốn là, Đảng có cơ chế phù hợp để tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn, các chính sách bảo hiểm cho công nhân, chăm lo cải thiện điều kiện lao động, phòng, chống tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Năm là, Đảng tiếp tục phát triển lý luận gắn với thực tiễn để giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Nâng cao tỷ lệ đảng viên là công nhân, thành phần công nhân trong cán bộ của Đảng và Nhà nước. Các cấp ủy đảng, cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng cần lắng nghe và giải quyết kịp thời ý kiến của CNVCLĐ và của tổ chức công đoàn; quan tâm lãnh đạo, tạo điều kiện pháp lý và địa vị xã hội cho công đoàn hoạt động, làm cho công đoàn thực sự là cầu nối giữa Đảng và CNVCLĐ.
Sáu là, tăng cường lãnh đạo các cơ quan nghiên cứu, tập hợp, phát huy trí tuệ các nhà khoa học để nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về giai cấp công nhân, về sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng giai cấp công nhân, phát huy vai trò giai cấp công nhân trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao trình độ nhận thức của cán bộ, đảng viên về giai cấp công nhân trong tình hình hiện nay; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo công đoàn Việt Nam, theo hướng sát, đúng và có hiệu quả.
(Theo TCCS)
---------
(1) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2014.