Đối ngoại Việt Nam trong những năm đổi mới: Một số kinh nghiệm
Tóm tắt: Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, trong thời gian vừa qua, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước đã được triển khai đồng bộ, hiệu quả, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phục vụ phát triển và nâng cao vị thế đất nước. Để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại trong tình hình mới thì việc nghiên cứu, dự báo chiến lược về đối ngoại là một trong những nhiệm vụ quan trọng.
Từ khóa: ngoại giao Việt Nam, đường lối đối ngoại, quan hệ quốc tế, hội nhập quốc tế
Đường lối, chính sách đối ngoại Việt Nam hiện nay được Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ khi bắt đầu thời kỳ đổi mới 1986. Qua mỗi kỳ đại hội, những nhận định, đánh giá, định hướng chính sách luôn có sự bổ sung, phát triển mới. Nghiên cứu đường lối, chính sách đối ngoại từ năm 1986 đến nay của Đảng, trên cơ sở những ưu điểm và hạn chế cả về lý luận và thực tiễn, có thể rút ra một số kinh nghiệm cho việc thực hiện đường lối đối ngoại Việt Nam hiện nay.
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh và Bộ trưởng Ngoại giao Canada Stéphane Dion - Ảnh- VGP_Hải Minh
Một là, phải thường xuyên đổi mới tư duy đối ngoại
Đổi mới trong lĩnh vực đối ngoại là một quá trình liên tục, bao gồm: đổi mới tư duy đối ngoại; đổi mới đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại; đổi mới về phong cách và hoạt động đối ngoại; v,v.. Trong đó, đổi mới về nhận thức, tư duy đối ngoại có vai trò quan trọng, thậm chí là quyết định đối với thành công của mặt trận đối ngoại.
Tư duy đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta dựa trên nền tảng quán triệt sâu sắc và sự vận dụng nhuần nhuyễn tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Trong từng giai đoạn lịch sử, Đảng ta đều dành nhiều công sức và trí tuệ để đánh giá cục diện, xu thế phát triển của thế giới cũng như tình hình kinh tế - xã hội trong nước nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm và có những điều chỉnh kịp thời đối với những nhận thức, tư duy không còn thích hợp.
Đổi mới tư duy về đối ngoại trước hết là đổi mới công tác nghiên cứu, phân tích, đánh giá những chuyển biến của tình hình thế giới và quan hệ quốc tế; là đổi mới tư duy về các mối quan hệ như quan hệ giữa lợi ích quốc gia và nghĩa vụ quốc tế, an ninh và phát triển, hợp tác và đấu tranh; là đổi mới tư duy về tập hợp lực lượng, từ đó xác định chủ trương, đường lối và chính sách đối ngoại thích hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể.
Đổi mới về nhận thức tư duy đối ngoại và quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta là một quá trình liên tục, gắn kết thực tiễn với lý luận, thể hiện tính biện chứng, linh hoạt, nhạy bén trong việc điều chỉnh, bổ sung và từng bước hoàn chỉnh đường lối, chính sách nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp bách của đất nước về an ninh và phát triển ở mỗi giai đoạn cụ thể; đồng thời thích ứng với bối cảnh chính trị, kinh tế quốc tế luôn biến động không ngừng.
Đổi mới tư duy đối ngoại đòi hỏi quá trình nghiên cứu, phân tích vấn đề lý luận, thực tiễn một cách tổng thể, sâu sắc. Cần có cách nhìn nhận thực tế, khách quan, có quan điểm đúng đắn khi phân tích những vấn đề mới phát sinh. Quá trình đổi mới tư duy phải luôn gắn với hoàn cảnh thực tế, yêu cầu nhiệm vụ cấp thiết của đất nước, trên quan điểm nhìn nhận Việt Nam là một thực thể có sự gắn bó, tác động qua lại mật thiết với thế giới.
Hai là, mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc
Đảng nhấn mạnh yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ phải đi đôi với chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước. Nhằm mở rộng hợp tác quốc tế, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, Đảng và Nhà nước tiến hành một loạt các biện pháp bổ sung, sửa đổi luật pháp với những điều luật thông thoáng hơn; cải cách hành chính để hạn chế và tiến đến loại bỏ những thủ tục hành chính phiền hà, gây khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu tư, nhằm thu hút, khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được nêu lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội XI. Tại Đại hội XII, mục tiêu này được làm rõ hơn và phát triển thành “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Qua đó, Đảng khẳng định: thứ nhất, lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là đồng nhất; thứ hai, lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam được xác định trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, không phải là những lợi ích dân tộc vị kỷ, hẹp hòi; thứ ba, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc phải là nguyên tắc tối cao của mọi hoạt động đối ngoại; thứ tư, mục tiêu của mọi hoạt động đối ngoại là phải bảo đảm một cách tối cao lợi ích quốc gia - dân tộc.
Đây là bài học xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng kể từ khi thành lập đến nay. Lịch sử Đảng cho thấy, bao giờ Đảng đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết thì lúc đó sẽ tập hợp được mọi lực lượng, mọi giai cấp. Việc hoạch định cũng như thực thi đường lối đối ngoại không nên bị chi phối một cách máy móc, những gì có lợi cho lợi ích quốc gia thì cố gắng làm, còn những gì ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia thì kiên quyết không làm. Bảo đảm lợi ích quốc gia, nhưng cũng phải bảo đảm lợi ích chính đáng của đối tác, phải biết nhân nhượng khi cần thiết, thực hiện nguyên tắc “cùng có lợi”. Đường lối, chính sách đối ngoại đều phải có mục đích rõ ràng đem lại lợi ích cho đất nước.
Ba là, xử lý tổng hòa các mối quan hệ, trong đó chú trọng mối quan hệ với các nước láng giềng, trong khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước
Với tinh thần chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với nhiều đối tác quan trọng, thiết lập và phát triển quan hệ với mọi quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Tuy nhiên, với mục tiêu tạo ra môi trường quốc tế liên quan trực tiếp nhất đến sự ổn định và phồn vinh của đất nước, chúng ta luôn dành ưu tiên cho việc xây dựng và củng cố mối quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong khu vực như tinh thần trong vế thứ hai của câu châm ngôn “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”.
Đối với các nước lớn, vẫn là những đối tác đóng vai trò quan trọng trong thế giới ngày nay, chúng ta không thể không dành mối quan tâm thỏa đáng tới quan hệ với họ. Muốn giữ vững môi trường hòa bình, ổn định không thể không duy trì quan hệ ổn định với các nước lớn. Thực tế lịch sử cho thấy, các nước lớn đều muốn tranh thủ Việt Nam để nắm vai trò ở khu vực, trong khi họ đều là những nước có tiềm năng về vốn, khoa học công nghệ, thị trường, đó là những yếu tố chúng ta cần tranh thủ để phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. vì vậy, cần phải có chính sách ngoại giao cân bằng giữa các nước lớn.
Bốn là, triển khai ngoại giao toàn diện, phối hợp chặt chẽ với các lĩnh vực khác để tạo thành sức mạnh tổng hợp trên mặt trận đối ngoại
Kết hợp chặt chẽ giữa ngoại giao với kinh tế và quốc phòng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam dù trong thời chiến hay thời bình, vì đây là ba nhân tố tổng hòa tạo nên sức mạnh tổng hợp của một quốc gia. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã chứng minh sự kết hợp mang tính chất quy luật này đã tạo thành sức mạnh tổng hợp, góp phần quan trọng trong cuộc đấu tranh bền bỉ, gay go và quyết liệt của nhân dân Việt Nam nhằm giành lại độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Khi Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, sự kết hợp chặt chẽ ngoại giao, kinh tế và quốc phòng càng có ý nghĩa sống còn do quan niệm về sức mạnh quốc gia đã có những thay đổi cơ bản, không đơn thuần chỉ là tiềm lực quân sự hùng mạnh, mà bao gồm nhiều nhân tố chia thành hai nhóm: sức mạnh “cứng” (sức mạnh kinh tế, sức mạnh quân sự, trình độ khoa học công nghệ, đất đai, tài nguyên, dân số…); sức mạnh “mềm” (chính sách ngoại giao, trình độ giáo dục, dân trí, tổ chức nhà nước, xã hội, hệ thống pháp luật, truyền thống dân tộc, văn hóa…). Do tác động của toàn cầu hóa, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia và sự phát triển của xã hội ngày càng theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực, nên mối quan hệ giữa ngoại giao, kinh tế, quốc phòng cần phải hết sức chặt chẽ, trước khi có một quyết sách về đối ngoại, đều phải cân nhắc đến những tác động cả về kinh tế, quốc phòng và an ninh. Thực tế cho thấy, nếu thiếu sự kết hợp tổng thể giữa ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, thì hệ quả đưa đến rất phức tạp. Tuy nhiên, kết hợp như thế nào để mỗi ngành phát huy thế mạnh của mình, không làm thay nhau, thì cần đẩy mạnh và có sự chỉ đạo sát sao, kiên quyết hơn nữa của các cấp lãnh đạo để tạo ra được sức mạnh tập thể, kịp thời xử lý được những tình huống ngày càng phức tạp, khó lường.
Chính sách đối ngoại đúng đắn về sự kết hợp ngoại giao, kinh tế, quốc phòng là nhân tố quan trọng góp phần giữ gìn hòa bình, cải thiện và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bảo vệ đất nước.
Năm là, tăng cường công tác nghiên cứu lý luận
Tình hình thế giới và quan hệ quốc tế luôn có biến động và những thay đổi hết sức cơ bản. Hiện nay, rất nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn của thế giới và quan hệ quốc tế cần được xem xét, nhìn nhận lại cũng như cần được đi sâu nghiên cứu những vấn đề mới nảy sinh. Việc tăng cường công tác nghiên cứu lý luận là cơ sở cho đổi mới về nhận thức, tư duy dự báo chiến lược và hoạch định đường lối đối ngoại.
Do đặc thù trong lĩnh vực đối ngoại, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận đòi hỏi sự toàn diện, tổng thể, bao gồm những vấn đề lý luận từ trong nước đến những vấn đề quốc tế cũng như sự gắn kết giữa chúng. Từ thành quả nghiên cứu lý luận giúp hoạch định đường lối chiến lược, chính sách đối ngoại và chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Để có thể đưa ra được đường lối chiến lược và sách lược hoàn thiện đáp ứng tốt yêu cầu và phát huy trí tuệ sáng tạo trong việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, từng bước nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, công tác phân tích dự báo tình hình đối với Việt Nam có vai trò vô cùng quan trọng. Cho tới nay, công tác nghiên cứu chiến lược, nhất là nghiên cứu dự báo, đánh giá cục diện chính trị, kinh tế thế giới cũng như lợi ích, chiến lược, ý đồ và khả năng của các đối tượng chính trên thế giới và khu vực, đặc biệt những đối tượng liên quan trực tiếp đến Việt Nam còn phân tán, hạn chế, ảnh hưởng đến việc xây dựng nhận thức thống nhất, làm cơ sở cho công tác tham mưu, đề xuất chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận toàn diện, có chiều sâu, không né tránh những vấn đề nhạy cảm đã được định hình và chấp nhận trong hệ thống lý luận, lấy thực tiễn phong phú từ công cuộc đổi mới của đất nước và cục diện thế giới ngày nay soi sáng.
Sáu là, nâng cao chất lượng, trình độ, bản lĩnh của đội ngũ làm công tác đối ngoại
Trong giai đoạn đổi mới, trước xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, yêu cầu nhiệm vụ của công tác đối ngoại cũng sẽ cao hơn, phức tạp và khó khăn hơn, đòi hỏi cán bộ làm công tác đối ngoại phải không ngừng tự rèn luyện phẩm chất, đạo đức và tác phong, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để tự nâng tầm mình lên ngang với nhiệm vụ đối ngoại. Cán bộ đối ngoại phải tạo dựng cho mình bản lĩnh của người chiến sĩ cách mạng trên mặt trận đối ngoại, trở thành những người chiến sĩ trung thành với đất nước, với Đảng trên mặt trận quốc tế.
Đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại phải tương xứng về nhận thức chính trị và trình độ chuyên môn với tầm vóc của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Tư tưởng, nghệ thuật, phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh là hành trang trí tuệ cho người cán bộ ngoại giao. Học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, hiểu biết sâu sắc về truyền thống ngoại giao của dân tộc, về văn hóa dân tộc và văn hóa các nước trên thế giới để thực hiện các hoạt động đối ngoại sao cho có lợi nhất cho đất nước.
Đường lối đối ngoại đúng đắn và quá trình chỉ đạo thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng đã từng bước gặt hái được những thành tựu to lớn, đồng thời cũng khắc phục những hạn chế, đúc rút những kinh nghiệm quan trọng, cần thiết. Ngoại giao Việt Nam từng bước vươn lên trở thành một nền ngoại giao cách mạng, chuyên nghiệp và hiện đại, phát triển vững chắc trên nền tảng lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
PGS.TS. Vũ Quang Vinh
Bài viết liên quan | Xem tất cả
- Đồng chí Hoàng Văn Thụ với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần
- Đồng chí Nguyễn Văn Tố - Nhà lãnh đạo tài năng, học giả uyên bác của Việt Nam
- Đồng chí Hoàng Đình Giong, lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam
- Đồng chí Đào Duy Tùng với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Đồng chí Nguyễn Lương Bằng - Người chiến sĩ cộng sản mẫu mực, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”
- Sách đồng hành cùng doanh nghiệp trong thời đại công nghệ số
- Đồng chí Lương Khánh Thiện - người chiến sĩ cộng sản kiên trung, trọn đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
- Kỷ niệm 116 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn (07/4/1907 - 07/4/2023): Nhà lãnh đạo kiệt xuất trọn đời vì nước, vì dân
- Đồng chí Chu Huy Mân - Người cộng sản kiên cường, nhà chính trị xuất sắc của Đảng và Quân đội nhân dân Việt Nam (17/3/1913 - 17/3/2023)
- Đồng chí Huỳnh Tấn Phát - Người cộng sản kiên trung mẫu mực