Quan hệ giữa văn hóa với kinh tế

Ngày đăng: 25/06/2012 - 15:06

 

hoi-lang-tinh-hoa-van-hoa-vVăn hóa là toàn bộ những giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử bằng lao động của mình trên cả hai lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”1.

Quán triệt tư tưởng chỉ dẫn của Bác Hồ, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) xác định văn hóa là “nền tảng tinh thần của xã hội” - đó là một khái quát lý luận rất quan trọng của Đảng ta.

Đời sống xã hội có hai mặt vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của đời sống xã hội, thì văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội. Khái quát khoa học đó cho thấy tất cả tầm quan trọng của văn hóa, mà từ đó còn dẫn đến nhiều khía cạnh lý luận cùng những kết luận thực tiễn hết sức quan trọng. Là “nền tảng tinh thần của xã hội”, khái niệm văn hóa không thể hiểu theo nghĩa hẹp mà phải được hiểu theo nghĩa rộng. Xã hội phải đứng hai chân trên hai “nền tảng”, nếu chỉ có một nền tảng thì xã hội không thể đứng vững.

 Với tính cách là “nền tảng tinh thần của xã hội”, văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế. Nghị quyết Trung ương 5 khẳng định: “Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện”2. Cương lĩnh của Đảng được thông qua tại Đại hội XI thể hiện những quan điểm chỉ đạo xây dựng nền văn hóa Việt Nam ở tầm chiến lược phát triển. Cương lĩnh viết: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”3.

 Trên thế giới, người ta đang bàn nhiều về các lý thuyết phát triển, trong đó ưu thế ngày càng thuộc về quan niệm coi mục tiêu phát triển phải là nâng cao chất lượng cuộc sống con người với bảo đảm sao cho hài hoà đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa mức sống cao với lối sống và nếp sống đẹp; không chỉ cho một số ít người mà cho đại đa số, cho toàn xã hội; không chỉ cho hôm nay mà cho cả mai sau.

Để đạt mục tiêu đó, nhất thiết phải có sự phát triển cao về kinh tế, về cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ. Song chỉ như thế thôi chưa đủ, và rất không đúng nếu hiểu xây dựng kinh tế chỉ là tăng trưởng đơn thuần, tăng trưởng với bất kỳ giá nào, thậm chí dù có phải hy sinh cả mặt xã hội, hy sinh văn hóa, hy sinh phẩm giá con người. Nếu hiểu và làm như thế là hoàn toàn xa lạ với lý tưởng xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Ngay một số học giả tiến bộ phương Tây cũng đã đi đến nhận thức rằng: những tiến bộ về kinh tế làm tăng mức sống nhưng đôi khi lại làm rối loạn cuộc sống con người và môi trường. Không phải cứ của cải tăng lên là cuộc sống gia đình, hôn nhân, lối sống, lao động... sẽ chỉ có tốt đẹp lên. Tiến bộ kỹ thuật góp phần làm cuộc sống dễ dàng, có khi lại là nguyên nhân của nhiều rối loạn xã hội nghiêm trọng. Trong những trường hợp như thế, có tăng trưởng nhưng không có phát triển, trái lại là “phản phát triển”.

Bởi vậy, cần nắm chắc quan điểm chỉ đạo cơ bản: chăm lo văn hóa là chăm lo xây dựng, củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững và dù tiện nghi vật chất dồi dào, xã hội cũng không tránh khỏi nguy cơ suy thóai, biến chất. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện.

Văn hóa không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của sự phát triển kinh tế. Trong thời đại ngày nay, nguồn gốc của sự giàu có không chỉ là tài nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật mà yếu tố ngày càng quan trọng và quyết định là nguồn lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm năng này nằm trong văn hóa, trong trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, nhân cách, lối sống, ý chí, nghị lực, tài năng và sự thành thạo công việc của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Chung quy lại, tài nguyên quý nhất, cái vốn quý nhất là con người, là văn hóa, là nguồn lao động chất lượng cao,  là nhân tài trong kinh tế tri thức, trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa đất nước.

Không ít nước có nhiều tài nguyên thiên nhiên nhưng rất nghèo đói, trái lại có nước tài nguyên thiên nhiên rất nghèo nhưng kinh tế lại rất giàu chính là nhờ coi trọng nâng cao dân trí, hun đúc dân khí, đào tạo nhân tài, nghĩa là rất coi trọng văn hóa.

Chung quy lại, tài nguyên quý nhất, vốn quý nhất là con người. Con người Việt Nam là sự kết tinh của nền văn hóa Việt Nam, vì vậy quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam cũng chính là quá trình góp phần rất quan trọng thực hiện chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn lực con người - nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển. Đây là khâu trung tâm của sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Tăng trưởng kinh tế là cực kỳ quan trọng đối với nước ta do điểm xuất phát rất thấp. Nếu kinh tế không tăng, đời sống vật chất nghèo nàn thì nói gì đến văn hóa. Nhưng xã hội phát triển không chỉ cần tăng trưởng và tăng trưởng kinh tế mà còn phải phát triển văn hóa và có công bằng xã hội.

Đánh giá thực trạng đời sống văn hóa nước ta hiện nay không phải là việc đơn giản. Có người quá bi quan với tình hình, cho là trong khi đời sống kinh tế có khá lên từ đổi mới đến nay thì đời sống tinh thần lại sa sút như chưa bao giờ có. Ngược lại, có người quá lạc quan cho mọi sự đều tốt đẹp, những hiện tượng tiêu cực là tự nhiên và không đáng kể. Thật ra, bức tranh không chỉ có một màu, hoặc toàn tối hoặc toàn sáng.

Trước hết, cần khẳng định, đời sống văn hóa của xã hội ta hiện nay so với thời cơ chế cũ có bước tiến bộ rõ rệt. Điều dễ thấy là tính năng động xã hội - kinh tế và tính tích cực công dân được khơi dậy và phát huy thay cho tâm lý thụ động, ỷ lại, trông chờ bao cấp trong cơ chế cũ. Bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội tăng lên. Mặt bằng dân trí từng bước được nâng cao, sở trường, năng lực cá nhân con người được khuyến khích, tôn trọng. Những nét mới nổi bật ấy được phản ánh qua hoạt động khởi sắc, phong phú, đa dạng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đời sống, báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật,... Trong sự phong phú, đa dạng và bộn bề của đời sống và hoạt động văn hóa, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng và phát triển sáng tạo vẫn là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam bảo đảm cho xã hội phát triển đúng hướng. Cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế làm sống động nền kinh tế và các hoạt động xã hội, phát triển giao lưu hàng hóa, du lịch và các sản phẩm văn hóa với các nước, giúp nhân dân ta mở rộng chân trời kiến thức. Các giá trị văn hóa truyền thống được tôn vinh thông qua các hoạt động lớn hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến, tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, đền ơn, đáp nghĩa những người có công, giúp đỡ những người bất hạnh, v.v.. 

Bên cạnh đó, mặt trái của kinh tế thị trường đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa Việt Nam. Đó là những hiện tượng suy thóai đạo đức, đặc biệt là nạn tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, gian lận thương mại, mua bằng, bán điểm, mua bán chức quyền,… là biểu hiện của thói ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, lối sống tiêu dùng, chủ nghĩa thực dụng. Đó là trạng thái dao động, hoài nghi, giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ trung, cao cấp. Đó là nhiều hiện tượng nhức nhối trước đây không hề có trong quan hệ gia đình, đạo lý thầy trò, quan hệ bạn bè, sự đảo lộn một số chuẩn giá trị và nếp sống vốn tốt đẹp. Đó là một bộ phận dân cư, trong đó đáng lo ngại là số lớp trẻ, thậm chí là học sinh, sinh viên hiểu biết quá ít về lịch sử, văn hóa, truyền thống dân tộc, trong khi đó lại phục hồi không phân biệt tốt, xấu các vốn cổ dân tộc, đồng thời đi liền với tâm lý sùng ngoại đôi khi đến mức mù quáng, phi lý, kệch cỡm, mất gốc. Đó là các tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng, sự đam mê nhu cầu vật chất và những dục vọng thấp hèn, lối sống bất chấp đạo lý, dư luận xã hội và luật pháp đang xô đẩy một số người đi vào con đường tội lỗi. Tất cả những hiện tượng trên đang làm vẩn đục môi trường văn hóa - xã hội, gây bất bình lớn trong nhân dân, làm xói mòn nền tảng tinh thần xã hội, tạo miếng đất màu mỡ cho sự xâm nhập sản phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài.

Tất nhiên, không thể đổ tất cả điều hủ bại trên cho nền kinh tế thị trường, dù chỉ nói mặt trái của kinh tế thị trường. Không làm chủ được kinh tế thị trường, nhiều khi phó mặc cho thị trường tự phát - đó là nguyên nhân chủ quan ở chúng ta. Vì thế, có lẽ rất cần tiến hành cuộc “tổng kiểm kê” sự biến đổi trong hệ giá trị xã hội, các chuẩn mực văn hóa kể từ khi chuyển sang kinh tế thị trường đến nay trong từng đối tượng cụ thể như: thanh niên, học sinh, sinh viên, công nhân, nông dân, đảng viên, cán bộ các cấp... Đồng thời cần nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và văn hóa, giữa giá trị văn hóa và giá trị thị trường. Đặc biệt, cần làm rõ vấn đề: Có thể thị trường hóa văn hóa hay không? Có thể thương mại hóa văn hóa hay không?

 Ngày nay, toàn cầu hóa đã và đang trở thành một xu thế khách quan, tất yếu của thời đại, trước hết trong lĩnh vực kinh tế và từ đó tác động mạnh lên mọi mặt đời sống của tất cả các quốc gia, dân tộc. Xu thế toàn cầu hóa tạo điều kiện cho các quốc gia, dân tộc xích lại gần nhau, hiểu biết nhau, bổ sung cho nhau, làm phong phú và hỗ trợ lẫn nhau. Đất nước ta nhất định nắm lấy xu thế này, coi đó là một thời cơ lớn, ra sức tận dụng mọi điều kiện có lợi do xu thế ấy tạo ra, đặc biệt để tranh thủ những khả năng vật chất kỹ thuật, khoa học, công nghệ, những kinh nghiệm và tri thức hiện đại cần thiết cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, cần thấy toàn cầu hóa hiện nay đang do chủ nghĩa tư bản chi phối, là một quá trình đầy mâu thuẫn phức tạp. Ở giác độ văn hóa, một mặt toàn cầu hóa đã mở ra khả năng to lớn để giao lưu văn hóa toàn cầu, tạo thêm động lực cho quá trình đổi mới và hiện đại hóa văn hóa dân tộc. Các dân tộc có điều kiện hiểu biết và học hỏi lẫn nhau, làm cho “những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc. Tính chất đơn phương và phiến diện dân tộc ngày càng không thể tồn tại được nữa; và từ những nền văn hóa dân tộc và địa phương, muôn hình muôn vẻ, đang nảy nở ra một nền văn học toàn thế giới”4. Nhưng, mặt khác, những biến đổi phức tạp trong văn hóa gắn với thị trường toàn cầu mà căn bản đang là thị trường tư bản chủ nghĩa, lại đặt các nước đang phát triển trước những thách thức to lớn.

Sự tác động của chủ nghĩa thực dụng, “văn hóa tiêu dùng” đang dẫn đến nguy cơ đồng nhất về văn hóa, về lối sống, một số thói quen và hình thức giải trí lai căng. Các hãng tư bản độc quyền xuyên quốc gia ra sức tuyên truyền, quảng cáo cho các sản phẩm mang tính toàn cầu có thể làm thay đổi nếp sống và văn hóa truyền thống của các dân tộc theo hướng “Tây hóa”, “Mỹ hóa”. Đứng trước thực trạng này, có lúc Ủy ban đối ngoại Quốc hội Pháp cũng kêu lên: “Văn hóa không phải là một thứ hàng hóa thông thường. Mối nguy cơ thực sự chính là quan điểm kiểu Mỹ về văn hóa, theo đó văn hóa cũng là một thứ hàng hóa thông thường. Chúng ta phải đấu tranh chống lại “thương mại hóa” ngày càng gia tăng đối với các hoạt động của con người, không cho nền công nghiệp giải trí Mỹ vốn đã đạt được hiệu quả chính trên thị trường của họ giờ đây lại chiếm lĩnh nốt mọi không gian sáng tạo của các nền văn hóa khác”5.

Có thể nói, toàn cầu hóa bên cạnh mặt tích cực, đang đặt văn hóa dân tộc trước những thách thức, thậm chí là nguy cơ bị tha hóa nếu thiếu bản sắc độc lập, tự chủ. Quá trình toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa, nếu áp dụng cho văn hóa, về thực chất có nghĩa là chủ nghĩa đế quốc văn hóa, nó đưa những giá trị phương Tây thống trị thế giới, nó đe dọa xoá bỏ sự khác biệt về nền văn hóa giữa các quốc gia dân tộc, giữa các vùng, các khu vực, sẽ làm nghèo đi sự đa dạng của bức tranh văn hóa nhân loại; nguy cơ đồng nhất hóa các hệ thống giá trị và truyền thống sẽ dẫn đến tự xóa bỏ ý thức dân tộc, làm cạn kiệt khả năng sáng tạo của các nền văn hóa.

Mở cửa hội nhập, văn hóa Việt Nam được tiếp cận ngày càng nhiều hơn các tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc và giúp nhanh chóng xây dựng một nền văn hóa tiên tiến mà linh hồn là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Không thể nhân danh bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc để đóng cửa, khép kín, hạn chế hội nhập và giao lưu văn hóa với thế giới bên ngoài. Nhưng, nếu chúng ta tự ti, vọng ngoại hay mất cảnh giác thì sẽ đánh mất bản sắc của mình, sẽ bị lấn át và có thể bị “đồng hóa”. Bởi vì, trong quá trình toàn cầu hóa, lợi thế đang nghiêng về các nước phát triển; các nước giàu đang có xu hướng áp đặt giá trị văn hóa của họ cho các nước nghèo. Dòng chảy văn hóa đang có xu thế từ nước mạnh thẩm thấu sang nước yếu, từ nước giàu sang nước nghèo. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nếu không có ý thức đầy đủ về lịch sử và truyền thống dân tộc sẽ dẫn tới đánh mất đi bản sắc dân tộc trước sự “quốc tế hóa” của văn hóa.

Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, chúng ta phải chịu thách thức về nhiều mặt, cả trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Bởi lẽ, có những trào lưu tư tưởng, văn hóa không phù hợp từ các trung tâm lớn Đông, Tây luôn tác động đến đời sống tư tưởng, văn hóa, xã hội nước ta. Toàn cầu hóa không những tạo khả năng quốc tế hóa những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại và các giá trị tinh hoa văn hóa mà còn phổ biến cả các hiện tượng tiêu cực của đời sống xã hội. Những ấn phẩm văn hóa phản động, đồi truỵ, làn sóng tội phạm, bạo lực và ma túy từ nước ngoài tràn vào đã góp phần làm lan tràn các tệ nạn xã hội ở nước ta trong những năm gần đây, cộng với âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch và sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nếu không kiên quyết ngăn chặn có hiệu quả đó sẽ là một nguy cơ làm suy yếu nền tảng tinh thần của đất nước, có thể làm suy yếu ngay cả chế độ.

Bài học từ những nước đang phát triển cho thấy, với sự mở cửa hướng ngoại tập trung vào kinh tế thì văn hóa truyền thống dễ bị coi thường. Sự du nhập ào ạt, thiếu chọn lọc các sản phẩm văn hóa từ bên ngoài dẫn đến tình trạng tha hóa, lai căng, hẫng hụt và hủy hoại các giá trị văn hóa tinh thần nền tảng của xã hội, khoét sâu thêm hố ngăn cách giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa. Nhớ rằng, kinh tế thất bại có thể làm lại được, còn văn hóa nếu mất đi là mất tất cả, vĩnh viễn.

Xuất phát từ yêu cầu hiện đại hóa đất nước trong quá trình mở cửa, hội nhập, giao lưu với nước ngoài, chúng ta vừa phải biết kế thừa, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc; vừa phải đấu tranh chống sự xâm nhập của các loại văn hóa độc hại, những khuynh hướng sùng ngoại, lai căng, mất gốc; vừa ra sức tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để hình thành nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ngang tầm thời đại.

GS. Nguyễn Đức Bình  

                                    

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.431.

2. . Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Sđd, tr.55.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.75-76.

4. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1995, t.4, tr.602.

5. Ủy ban đối ngoại của Quốc hội Cộng hoà Pháp: Toàn cầu hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.50.

 

Bình luận

Bài viết liên quan | Xem tất cả